Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>(Góc nhìn từ người ở tương lai)</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi sinh ra ở thế kỷ 21, nơi người ta khuyến khích yêu bằng cả trái tim, sống thật với cảm xúc mình, và dũng cảm từ chối những khuôn phép đạo đức cứng nhắc nếu nó làm khổ con người. Thế nhưng, mỗi lần nghe lại bài ca Lan và Điệp, tôi vẫn không khỏi thổn thức – không chỉ vì Lan mà còn vì chàng trai tên Điệp, một nhân vật mà có lẽ, thời đại của tôi sẽ nhìn khác đi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi không còn thấy một chàng thư sinh nhu nhược như sách vở từng bảo. Tôi thấy một con người bị giằng xé – giữa đạo hiếu và đạo tình, giữa kỳ vọng gia đình và tiếng gọi con tim. Anh yêu Lan, điều đó rõ ràng. Nhưng anh cũng yêu mẹ, yêu trách nhiệm, yêu lý tưởng học hành mà xã hội xưa truyền dạy. Và rồi trong chính tình yêu đó, anh bị chính thế giới mình sống phản bội.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở thời đại tôi, người ta dám từ chối mai mối, dám nắm tay người mình yêu bỏ trốn, dám chọn “thất bại” để được sống đúng với mình. Nhưng ở thời Điệp, một cái tên cha mẹ đặt cho, một chữ “hiếu” bị hiểu một chiều, có thể giết chết cả tuổi xuân của hai con người. Điệp không phải không yêu – anh chỉ bị bóp nghẹt giữa những lằn ranh người ta dựng sẵn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi tự hỏi, nếu Điệp được sinh ra trong thời đại tôi – nơi mà người trẻ có thể vừa học hành, vừa yêu, vừa nói “không” khi bị sắp đặt – thì liệu anh có giữ được Lan? Hay ít ra, anh sẽ không mang theo suốt đời nỗi đau của kẻ đánh mất một người con gái chỉ vì... làm đúng?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi không trách anh. Tôi thương.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thương một thế hệ đã bị làm cho tin rằng hy sinh bản thân là điều cao quý nhất. Thương một người đàn ông từng có một tình yêu trong sáng, chân thành, rồi để mất nó vì không dám trái lời mẹ, không dám làm điều “người ta bảo là sai”. Thương một chàng Điệp đã già đi trong lặng thinh, ôm lấy hình bóng Lan như một di ảnh tình yêu cũ kỹ không ai còn dám sống lại.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Và tôi tự hỏi mình: Liệu hôm nay, tôi có đủ can đảm để không trở thành một Điệp thời hiện đại? Khi mà xã hội vẫn đôi khi bắt ta chọn giữa lý tưởng và trái tim, giữa tiếng nói của gia đình và tiếng nói của bản thân.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Điệp không chỉ là một nhân vật trong vở tuồng xưa. Điệp là một tấm gương – không phải để soi vào rồi chê trách, mà để nhắc nhở: tình yêu không có lỗi, chỉ có những con người không được phép yêu trọn vẹn.</p></div>
Ảnh đại diện
Trần Ngô Du Tác giả mới
Trần Ngô Du Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Ngô vương cậy bá, tỏ hùng tài</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>Tham uống Cô Tô chén rượu say</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>Nào biết Tiền Đường vừng nguyệt sáng</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>Đưa quân Việt đến tối hôm nay”.</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Bài thơ vịnh sử của Hồ Tăng thời Đường đã khái quát gần như trọn vẹn hình tượng Ngô vương Phù Sai trong tâm thức của chúng ta hiện nay. Nhắc tới Phù Sai, ta nghĩ ngay đến một ông vua ngủ quên trong chiến thắng. Phù Sai sau khi đánh bại Câu Tiễn đã có thời cơ để thôn tính nước Việt, nhưng lại không làm. Câu Tiễn trở về nằm gai nếm mật, dâng Tây Thi cho Phù Sai. Phù Sai mê đắm sắc đẹp, làm quốc lực cạn kiệt, lại lên phía bắc giành quyền bá chủ, cuối cùng bị Câu Tiễn đánh úp, đất nước diệt vong. Nói đến Phù Sai là nói đến Tây Thi. Sắc đẹp của Tây Thi được xem là nguyên nhân quan trọng khiến Phù Sai thất bại.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/d6a7bde1c55696d1b83f1762663a72e7dc3da2a7173cbae16ff364de188c657c.jpg"alt="TayThi.jpg"style="max-width: 100%;"><span class="image-caption">Tranh vẽ Tây Thi trong sách "Họa lệ châu túy tú" của Hách Đạt Tư thời Thanh</span></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vấn đề nằm ở chỗ, đến tận đầu thời Tây Hán, Tư Mã Thiên soạn <i>Sử ký</i> không hề nhắc nhở gì đến vai trò của Tây Thi trong cuộc đối đầu Phù Sai – Câu Tiễn. Mạnh Tử, Tuân Tử, Trang Tử thời Chiến Quốc quả thực có nhắc đến mỹ nhân Tây Thi, nhưng không hề đề cập gì đến mối quan hệ giữa Tây Thi với Phù Sai, Phạm Lãi. Thậm chí trong <i>Quản tử</i> - quyển sách được cho là do Quản Trọng nước Tề biên soạn, sớm hơn thời Ngô vương Phù Sai – cũng đã nhắc đến Tây Thi. Vai trò của Tây Thi trong việc khiến Phù Sai diệt vong phải đến thời Đông Hán mới được nhắc đến trong cuốn <i>Ngô Việt xuân thu</i> và một số sách khác. Điều này khiến cho chúng ta phải đặt lại vấn đề vai trò của Tây Thi trong sự diệt vong của nước Ngô. Vậy cuộc đối đầu Phù Sai – Câu Tiễn đã được mô tả thế nào trong các tài liệu sớm nhất?</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1>Vì sao Phù Sai tha cho Câu Tiễn?</h1></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đầu mối câu chuyện Phù Sai – Câu Tiễn bắt đầu từ thời tiên vương nước Ngô là Hạp Lư. Năm thứ 10 đời Hạp Lư, khi Hạp Lư đang đánh Sở, nước Việt đã kéo vào đánh nước Ngô. <i>Xuân Thu</i> của Khổng Tử chép rằng: “Ư Việt nhập Ngô” là nói đến trận chiến ấy. <i>Sử ký, Việt vương Câu Tiễn thế gia</i> cũng có nói thời Việt vương Doãn Thường đánh nhau với Ngô, nên hai bên ghét nhau. Năm đầu thời Việt vương Câu Tiễn, tức năm thứ 19 thời Ngô vương Hạp Lư, Hạp Lư nghe tin Doãn Thường đã chết, bèn cất quân đánh Ngô. Việt vương Câu Tiễn đem quân ra chống cự, đánh bại quân Ngô ở Túy Lý. Ngô vương Hạp Lư trúng tên vào chân, phải lui binh. Quân Việt truy kích đến Cô Tô. Hạp Lư vì vết thương này mà qua đời, nhưng trước đó đã kịp truyền vị cho Thái tử Phù Sai. Theo <i>Tả truyện</i> Phù Sai cho một người đứng ở sân. Mỗi lần ông ta đi qua, người đó đều nhắc chuyện Việt vương giết cha mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/4051d1599205f603e7893883d565003ec8d7ae6773321a29389b3665d3882571.png"alt="c2b1c1f50104ac9004137c22d55862e68e19dc4dd1a022fc32314304856ec0c7.png"style="max-width: 100%;"><span class="image-caption">Minh họa Ngô vương Phù Sai trong sách "Đông Chu liệt quốc chí"</span></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Phù Sai vì báo thù nên tích cực luyện binh. Năm thứ hai thời Ngô vương Phù Sai, Ngô và Việt giao chiến ở Phu Tiêu. <i>Sử ký, Việt vương Câu Tiễn thế gia</i> nói rõ rằng Câu Tiễn nghe nói Phù Sai luyện binh muốn báo thù nên đã đánh phủ đầu, bỏ mặc lời can gián của Phạm Lãi. <i>Tả truyện</i> nói rõ: “Ngô vương là Phù Sai đánh bại quân Việt ở Phu Tiêu, để báo trận Túy Lý xưa, rồi vào nước Việt. Vua Việt họp 5000 giáp binh, đủ giáp mộc, tại đất Cối Kê, rồi sai Đại phu Văn Chủng nói lót với Thái tể Phỉ (đại thần nước Ngô) để xin cho vua Ngô hòa”. Điều này cho thấy thực lực của Câu Tiễn chưa đến nỗi kiệt quệ. Tư Mã Thiên đã tô đậm tình thế khốn đốn đó bằng cách nói quân Ngô vây Câu Tiễn ở Cối Kê. Phù Sai cuối cùng đã đồng ý hòa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Quyết định của Phù Sai đã bị Ngũ Tử Tư cực lực phản đối. Ông ta dẫn ra sự tích Hữu Quá diệt Hạ, rồi Thiếu Khang bằng một lực lượng nhỏ bé đã quật khởi lại. Ông kết luận: “Nay Ngô không bằng cương thổ của Hữu Quá, mà Câu Tiễn còn lớn tuổi hơn Thiếu Khang. Nay không nhân lúc này mà diệt đi, lại còn khoan thứ, chẳng phải cũng là họa sao?”. Ngày nay ta cảm thấy lời nói của Ngũ Tử Tư là chính xác, nhưng nếu xét tình thế chính trị lúc đó thì không phải như vậy. Thứ nhất, đây là chiến dịch mà nước Ngô tự vệ rồi phản công, nghĩa là thiếu hẳn sự chuẩn bị đầy đủ. Nước Việt cũng mới chỉ thua một trận. Câu Tiễn cũng thề nếu không được hòa thì sẽ tử chiến. Về căn bản Ngô không sẵn sàng để đối diện với nước Việt trường kỳ kháng chiến. Thứ hai, thời Xuân Thu, việc diệt một nước không phải là chuyện dễ. Các nước nhỏ như Lỗ, Tống, Vệ, Trần, Sái đều bị thua rất nhiều trận, nhưng cũng không dễ dàng mất nước. Chiến tranh thường kết thúc bằng một hiệp định hòa bình. Thứ ba, nước Ngô từ sau chiến dịch đánh Sở phải đối diện với nguy cơ từ Sở và đồng minh của Sở. Bản thân xu thế của nước Ngô từ thời Hạp Lư cũng là Bắc tiến, hòng trục lộc Trung Nguyên. Quay mặt về nam không phù hợp với xu thế đó. Xét tình thế chính trị nước Ngô lúc đó, kết thúc chiến tranh với Việt bằng một hiệp nghị hòa bình và để nước Việt xưng thần với Ngô là quyết định phù hợp hơn. Điều này cũng giống như tính toán của Gia Cát Lượng: thu hàng Mạnh Hoạch ở phía nam, rồi sau mới lên đánh Ngụy ở phía bắc.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/d972e0d89f8e232c8992f21e644bfd33123c55cb9bbae3956508cd30a1a2f207.png"alt="NguTuTu.png"style="max-width: 100%;"><span class="image-caption">Minh họa Ngũ Tử Tư trong "Thánh quân hiền thần toàn thân tượng sách"</span></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>Ngô Việt xuân thu</i> thời Đông Hán kể ra một câu chuyện hết sức lâm li về việc Câu Tiễn sang làm nô lệ ở Ngô mấy năm, nếm phân cho Phù Sai, rồi được Phù Sai thả về. Kỳ thực đó có thể toàn là lời tiểu thuyết. <i>Sử ký, Việt vương Câu Tiễn thế gia</i> nói: “Ngô vương không nghe (lời Ngũ Tử Tư), cuối cùng tha cho Việt, bãi binh quay về… Ngô đã tha Việt, Việt vương Câu Tiễn về nước”. Sau khi về nước, Câu Tiễn “ủy thác việc nước cho Đại phu Chủng, mà sai Phạm Lãi và Đại phu Chá Kê đi bày tỏ thành ý, làm con tin ở Ngô. Được hai năm thì Ngô cho Lãi về”. Câu Tiễn căn bản không hề làm con tin ở nước Ngô.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1>Phù Sai có lơ là nước Việt hay không?</h1></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo <i>Tả truyện</i>, Ngô và Việt giảng hòa vào tháng ba năm thứ hai đời Ngô vương Phù Sai (năm thứ ba đời Việt vương Câu Tiễn). Tháng tám cùng năm, Phù Sai kéo quân lên phía bắc, tiến đánh nước Trần. Nguyên nhân là vào thời Ngô vương Hạp Lư đánh Sở, có gọi Trần Hoài công tới giúp. Trần Hoài công không đáp ứng lời yêu cầu đó. Chiến dịch này chắc cũng là để đáp trả hành động của Sở và các đồng minh Trần, Tùy, Hứa cùng tiến đánh nước Sái hồi đầu năm (lúc Hạp Lư đánh Sở, nước Sái đã giúp Ngô, nên bị Sở báo thù) khiến dân Sái phải chạy sang Ngô xin đất để dời nước. Điều đó cho thấy áp lực phía bắc nước Ngô là hết sức đáng lo ngại. Nước Ngô không có thời gian rảnh để dây dưa với nước Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm thứ ba thời Ngô vương Phù Sai, Phù Sai lại ép dời nước Sái đi chỗ khác. Năm thứ bảy, Phù Sai lại xuất quân đánh Trần. Năm thứ tám, Phù Sai họp mặt với Lỗ Ai công ở đất Tắng (<i>Sử ký</i> chép nhầm vào năm thứ 7). Liền đó, Lỗ đánh nước Châu, bắt Châu tử tên là Ích. Nước Châu cầu cứu với Ngô. Vì thế, năm thứ 9, Phù Sai tiến đánh nước Lỗ. Lỗ thua trận. Phù Sai lại cùng nước Lỗ ăn thề rồi bãi binh. Tề Điệu công nhân đó lại xin Ngô hiệp trợ đánh Lỗ. Phù Sai đồng ý, nhưng rồi Tề và Lỗ lại hòa nhau. Tề sai sứ sang từ khước quân Ngô. Phù Sai đáp rằng: “Năm ngoái, tôi đã thuận giúp nhà vua. Nay nhà vua lại đổi ý kiến. Tôi biết thế nào mà tuân lệnh. Để tôi đem quân tới hỏi rõ biết ý nhà vua”. Khi đó là mùa xuân năm thứ 10 đời Ngô vương Phù Sai. Năm đó, Ngô đắp thành bên sông Hán và toan thông sông Trường Giang với Hoài Hà, để tiến lên phía bắc. Mùa đông, Phù Sai cho sứ sang giục nước Lỗ chuẩn bị quân đội để đánh Tề.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/6f3e62987747af7015dddb027ef73378de33a8bec5052600d7b7fd54ee15d9a5.jpg"alt="VietvuongCauTien.jpg"style="max-width: 100%;"><span class="image-caption">Minh họa Việt vương Câu Tiễn trong sách "Đông Chu liệt quốc chí"</span></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong khi Phù Sai chăm chăm bắc tiến thì Câu Tiễn ở sau lưng Phù Sai để mài dao. <i>Sử ký, Việt vương Câu Tiễn thế gia</i> chép: “Câu Tiễn từ Cối Kê về, trong vòng bảy năm, chăm lo cho sĩ, dân, muốn dùng để báo thù Ngô”. Đại phu Phùng Đồng can ngăn, khuyên tiếp tục nuôi dưỡng lực lượng, giao thiệp với Tề, Sở, Tấn, hình thành cục diện “ba nước đánh Ngô, Việt thừa cơ hội”. Tính theo thời gian thì việc này diễn ra vào lúc Phù Sai đem quân đánh nước Lỗ. Lúc đó nước Việt đã có ý định thừa cơ đánh úp phía sau. Hai năm sau, Phù Sai toan đánh Tề. Ngũ Tử Tư can: “Thần nghe nói Câu Tiễn ăn không cần ngon, cùng trăm họ chung sướng khổ. Người này không chết, ắt gây họa cho nước. Ngô có Việt như bệnh trong tim ruột. Tề với Ngô như là ghẻ lở thôi. Xin vương bỏ Tề mà đánh Việt”. Kết quả Ngô vương Phù Sai không nghe lời.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tư Mã Thiên biên soạn <i>Việt vương Câu Tiễn thế gia</i>, cố tình tạo ra cảm giác Phù Sai không nhận thức được mối lo từ phía Câu Tiễn. Kỳ thực, ở một thiên truyện khác, Tư Mã Thiên lại cho thấy rằng Phù Sai hoàn toàn hiểu rõ động thái của nước Việt. Trước chiến dịch này, khi có người khuyên Phù Sai đánh Tề, ông ta đã trả lời: “Ta từng cùng Việt giao chiến, khốn họ ở Cối Kê. Việt vương khổ thân nuôi kẻ sĩ, có lòng báo thù ta. Thầy đợi ta đánh Việt rồi sẽ nghe lời thầy”. Nói cách khác, những trò mèo nếm mật nằm gai của Câu Tiễn, Phạm Lãi không hề qua mắt được Phù Sai. Nếu lúc đó Phù Sai tiến đánh nước Việt thì bây giờ chúng ta sẽ đồng thanh lên án Câu Tiễn hoang dâm, say mê sắc đẹp của Tây Thi, nghe lời gian thần Phạm Lãi, khiến cho nước Việt diệt vong. Đến lúc đó dù có một ngàn Tây Thi cũng không cứu nổi nước Việt. Điều thú vị là người cứu nguy cho nước Việt không phải là một người con gái nghiêng nước nghiêng thành, mà là một ông già nhăn nheo trán dồ mà ta hay gọi là Khổng phu tử.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1>Lợi mình hại người, Khổng Tử tiêu diệt nước Ngô</h1></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>Sử ký, Trọng Ni đệ tử liệt truyện</i> chép rằng Điền Thường muốn làm loạn nước Tề, nhưng sợ các họ Cao, Quốc, Bào, Yến, vì thế muốn dời quân của họ đi đánh nước Lỗ. Khổng Tử nghe tin này, bèn hỏi các môn đệ xem ai có thể đi cứu Lỗ. Tử Lộ, Tử Trương, Tử Thạch lần lượt xin đi. Khổng Tử đều không cho. Đến lượt Tử Cống xin đi, Khổng Tử đồng ý.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/56cd912a851ad5d9fcb5c5fd94af08bc7b76d56cd26a614f6a1b0a8062bc2365.jpg"alt="TuCong.jpg"style="max-width: 100%;"><span class="image-caption">Minh họa Tử Cống trong "Chí thánh tiên hiền bán thân tượng sách"</span></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tử Cống sang Tề, khuyên Điền Thường đừng đánh Lỗ mà nên đánh Ngô. Đánh Lỗ dễ thắng nên thế lực của kẻ thù Điền Thường sẽ tăng cao. Ngô mạnh, đánh Ngô thua thì “dân chết ở ngoài, đại thần trống rỗng bên trong (vì thua chết rồi), thế là ngài trên không có cường thần đối địch, dưới không có lỗi với dân chúng, khiến chủ cô lập mà người khống chế Tề chỉ có mình ngài”. Điền Thường khen hay, nhưng không có lý do để chuyển quân từ Lỗ sang Ngô. Tử Cống lại sang nước Ngô khích Phù Sai đánh Tề.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tử Cống sang Ngô thuyết phục Phù Sai giúp Lỗ đánh Tề, “vỗ về chư hầu trên sông Tứ, trừ bạo Tề để phục cường Tấn”. Mục tiêu cuối cùng chính là xưng bá. Phù Sai đã đáp lại Tử Cống như ta đã biết: Việt muốn báo thù Ngô, Phù Sai sẽ đánh Việt trước rồi mới đánh Tề. Tử Cống lại hiến kế, xin sang bảo nước Việt đem hết binh trong nước theo Ngô đánh Tề. Nước Việt một khi trống rỗng. Ngô sẽ không lo gì nữa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tử Cống sang Việt, lại đem hết suy nghĩ trong lòng Phù Sai nói lại cho Câu Tiễn. Câu Tiễn sụp lạy lia lịa, xin hỏi kế sách. Tử Cống khuyên nên đem quân giúp Ngô, dùng lời lẽ nhún nhường và quà biếu hậu hĩnh để nước Ngô yên lòng. Tử Cống còn nói: Ngô đánh Tề mà thua thì lợi cho nước Việt, đánh thắng thì sẽ chuyển quân đánh Tấn. Tử Cống sẽ đi sang dặn vua Tấn chuẩn bị trước, để đánh nước Ngô. Câu Tiễn đồng ý, bèn xuất ba ngàn quân giúp Ngô.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Giải quyết được mối lo về nước Việt, Phù Sai bèn đưa quân đánh Tề. Năm thứ 10, Phù Sai hội cùng ba nước Lỗ, Châu, Đàm tiến đánh nước Tề. Năm thứ 11, Ngô và Lỗ lại đánh Tề, đại phá quân Tề ở Ngải Lăng. Phù Sai từ đó mới giải bỏ sự phòng bị với nước Việt, tích cực lên bắc giành quyền bá chủ. Ngũ Tử Tư chủ trương "diệt Việt" thất thế trước Bá Phỉ chủ trương "hòa Việt", cuối cùng bị ban chết. Năm thứ 14, Phù Sai tới Hoàng Trì giành minh chủ với nước Tấn. Câu Tiễn thừa cơ đánh úp, phá quốc đô nước Ngô. Câu Tiễn còn thắng lớn hơn cả Phù Sai năm đó, nhưng cũng phải làm như Phù Sai, liên hòa với nước Ngô. Năm thứ 18, Việt lại tới đánh Ngô. Năm thứ 20 lại đánh lần nữa. Lần này chiến sự kéo dài tận ba năm, cuối cùng mới diệt được nước Ngô.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/616309015d71d4b87686cce5d810ee09fa8cb0cfc33d301b9b9e2267a3169444.png"alt="GuongdongTayThi.png"style="max-width: 100%;"><span class="image-caption">Gương đồng thời Hậu Hán - Tam Quốc. Từ hướng 12 giờ, theo chiều kim đồng hồ: Ngũ Tử Tư, Việt vương và Phạm Lãi, hai người con gái và Ngô vương Phù Sai.</span></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngô vương Phù Sai anh minh một đời. Ông ta đối phó hạng Câu Tiễn, Phạm Lãi thì thừa sức. Nhưng đối phó liên hoàn kế của học trò Khổng Tử thì phải thúc thủ hoàn toàn. Phù Sai đâu có ngờ thánh nhân mà lại chơi đâm sau lưng mình!&nbsp;</p></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Việt Nam – một trong những quốc gia uống cà phê nhiều nhất châu Á, với văn hoá cà phê vỉa hè độc đáo, cà phê sữa đá đậm đặc, cà phê trứng sóng mịn, cà phê phin chậm rãi... Chúng ta pha cà phê rất ngon. Nhưng đã bao giờ bạn tự hỏi: Ai là người Việt đầu tiên pha một ly cà phê? Ai là người đầu tiên ngồi xuống và nhâm nhi nó trong sự tĩnh lặng như một nghi lễ? Không ai biết. Và cũng chẳng có bức tượng nào dựng lên cho người pha chế đầu tiên.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/52b49883bb73ccdbaf40e0ec300bbfa117f01ddf196e0e7b9d38e909f7228fd4.jpg"alt="508150363_1617026148976441_7642489996275536483_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cũng như cách hạt cà phê đến với Việt Nam: lặng lẽ và đầy nhân duyên.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1857, các linh mục truyền giáo người Pháp mang theo giống cà phê Arabica đến Việt Nam, gieo trồng nơi vườn các tu viện miền Trung. Họ không mang nó đến để buôn bán, mà đơn giản là để sống – và tỉnh táo – trong những vùng đất xa xôi, khi lời cầu nguyện cần một ly cà phê nóng đồng hành.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Gần 70 năm sau, một người Pháp khác cũng mang cà phê vào lòng đất Việt, nhưng với một lý do khác: niềm tin vào nông nghiệp. Tên ông là Eugène Poilane, sinh năm 1888, từng là lính pháo binh, rồi trở thành nhà thực vật học, và đặc biệt – học trò thân tín của bác sĩ – nhà thám hiểm huyền thoại Alexandre Yersin.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Yersin gieo khoa học lên cao nguyên Lâm Viên, mang giống quinquina và cao su đến Đông Dương. Còn Poilane – theo bước người thầy – mang đến nhiều hơn một giống cây: ông mang cả một hệ sinh thái nông nghiệp ôn đới đến rừng núi nhiệt đới Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tại đồn điền ở Khe Sanh, năm 1926, Poilane gieo trồng cà phê Arabica Typica (giống Chiari), nhưng không dừng lại ở đó. Ông mang đến:</p></div><div class="block-wrapper" type="list"><ul list-style="unordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Giống mận, mơ, đào từ Pháp và vùng cận nhiệt, trồng thử nghiệm ở các vùng cao lạnh như Lào Cai, Hà Giang, Đà Lạt. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Cây hồ tiêu, các loại quế, hồi, và gỗ quý như lim, dổi, trắc – được thu thập, nghiên cứu và nhân giống. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Cây lấy tinh dầu, cây thuốc, cây ăn quả bản địa và du nhập, nhằm tìm hiểu khả năng phát triển nông nghiệp bản xứ. </div></li></ul></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không chỉ trồng – ông còn sưu tầm hơn 36.000 mẫu thực vật Đông Dương, gửi về Trung tâm Thực vật học Paris. Nhiều loài cây sau này được đặt theo tên ông, ví dụ: Nepenthes poilanei – loài nắp ấm quý hiếm ở Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Poilane chính là người làm cầu nối giữa khoa học thực vật châu Âu và sự phong phú sinh học của Đông Dương.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhưng chính cà phê là di sản sâu nhất của ông với Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cà phê Arabica ở Khe Sanh – cao 400m, đất đỏ, khí hậu lạnh sương – phát triển vượt bậc dưới tay ông và người dân địa phương. Đồn điền của ông trở thành nền móng cho ngành cà phê đặc sản Arabica tại Quảng Trị, trước khi lan sang Lào và vùng núi phía Bắc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông sống như người Việt, lấy vợ Việt, có con, ở lại nơi ông chọn làm đất tâm linh. Và ông cũng chết như một người Việt: bị phục kích trong chiến tranh năm 1964, không trở về Pháp, mà nằm lại giữa rừng xanh đã từng mọc lên từ tay ông.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/809bd5263109d30830b4ab97948cb863a1598648846eaece40f3b4b928acd3e1.jpg"alt="508336455_1617259562286433_7194097272592698719_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng ta không nhớ ai là người đầu tiên pha cà phê ở Việt Nam. Nhưng ta biết rõ ai đã gieo trồng cả một nền văn hóa cà phê Arabica vào đất đỏ núi rừng – đó là Eugène Poilane. Và trước ông, là những linh mục vô danh, gieo niềm tin bằng cả Thánh Kinh lẫn hạt giống.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Từ đức tin đến lao động, từ Chúa đến đất, từ Pháp đến Việt Nam – hành trình của cà phê là hành trình của ký ức lặng lẽ. Và hôm nay, mỗi khi ta nhấp một ngụm cà phê phin nhỏ giọt, chậm rãi giữa phố phường Sài Gòn hay bên đồi Khe Sanh mù sương, ta đang tiếp nối một mạch sống thầm nhưng bền vững.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Một ly cà phê – không chỉ đắng, mà còn dày dặn thời gian.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Tài liệu tham khảo:</h3></div><div class="block-wrapper" type="list"><ol list-style="ordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Lecourrier.vn – Le prince Patrick-Édouard Bloch: De ses souvenirs avec son père empereur au souhait de retour aux origines → Bài phỏng vấn có đề cập đến lịch sử nông nghiệp thời Đông Dương và vai trò của người Pháp tại Việt Nam. <a>https://lecourrier.vn/le-prince-patrick-edouard-bloch-de-ses-souvenirs-avec-son-pere-empereur-au-souhait-de-retour-aux-origines/1282339.html</a> </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">“Le rôle de M. Eugène Poilane dans l'introduction du caféier au Vietnam”, Archives de l’Indochine, Paris, 1932. (Vai trò của Poilane trong việc đưa giống cà phê Typica đến Việt Nam – tài liệu lưu trữ Viện Viễn Đông Bác Cổ.) </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Nguyễn Văn Chính (2018), “Lịch sử cây cà phê Việt Nam”, NXB Tổng hợp TP.HCM. (Tác phẩm khảo cứu chi tiết các giống cà phê và lịch sử đồn điền thời Pháp.) </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Trung tâm Bảo tồn Thực vật IRD (Pháp) – Hồ sơ 36.000 mẫu thực vật do Poilane gửi từ Đông Dương (1915–1945). </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Sách “Alexandre Yersin – Người Á Đông da trắng” của Patrick Deville – nêu rõ ảnh hưởng của Yersin đến thế hệ học trò như Poilane. </div></li></ol></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Patrick-Édouard Bloch-Carcenac – mảnh cuối cùng của triều Nguyễn, tiếng vọng từ một dòng máu bị lãng quên.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>I. Một khúc mở đầu giữa sương mù</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lịch sử thường được viết bởi những người chiến thắng, ghi danh những kẻ có ngai vàng, danh vị, quyền lực. Nhưng bên ngoài ánh đèn lịch sử, luôn tồn tại những tiếng nói thì thầm – lặng lẽ, mơ hồ – như tiếng chuông mỏng rơi trên vùng đất xa lạ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Patrick-Édouard Bloch-Carcenac là một trong những tiếng nói ấy.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không phải một cái tên quen thuộc trong sử Việt, ông không được sinh ra trong hoàng cung, không lớn lên giữa những lễ nhạc nghiêm trang, càng không từng hiện diện trên bản đồ chính trị. Nhưng ông là con ruột của hoàng đế Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn – người đã sống những năm cuối đời tại Pháp, như một ẩn sĩ thời hậu đế chế.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Và Patrick – con út, sinh năm 1958 tại Alsace – là mảnh cuối cùng trong câu chuyện hoàng tộc chưa bao giờ được kể trọn vẹn.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>II. Người con bị lịch sử lãng quên</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mẹ ông, Christiane Bloch-Carcenac, là một phụ nữ Pháp hiền hậu và kín tiếng. Bà gặp Bảo Đại trong một buổi săn bắn vào năm 1957, khi vị hoàng đế đã thoái vị, sống lưu vong tại Côte d’Azur. Mối tình ấy kéo dài gần một thập kỷ, nhưng không bao giờ được thừa nhận công khai.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Patrick lớn lên tại thị trấn Erstein, vùng Alsace, trong một gia đình Do Thái. Trong suốt tuổi thơ, ông luôn tin rằng ông Georges Bloch – người chồng của mẹ – là cha ruột của mình. Mãi đến khi khoảng 9 tuổi, sự thật lộ diện. Không phải qua những lời thì thầm trong gia đình, mà giữa một khách sạn tráng lệ tại Paris. Trong thang máy khách sạn George V, vua Bảo Đại nhìn Patrick và nói với một người bạn:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“C’est mon fils.” – “Đây là con trai tôi.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chỉ một câu, nhưng đã làm thay đổi toàn bộ ý thức của Patrick về bản thân. Từ đó trở đi, ông không còn nhìn mình là một đứa trẻ Pháp bình thường. Ông trở thành người con không ngai, mang trong người một dòng máu bị lãng quên.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/a3b13b52b95f19295665d4070920dc6f065f436f6674034a4490c97962df68a1.jpg"alt="506725557_29869314972716873_8440877693379033257_n (1).jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>III. Những ngày làm con của một vị vua… không ngai</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dù không sống chung, nhưng Bảo Đại thường đến đón Patrick sau giờ học. Hai cha con trò chuyện về triết học, văn hóa, lịch sử. Không có sự răn dạy của vua chúa, không nghi lễ, không sâm nghiêm – chỉ là hai con người, một già, một trẻ, nối kết bởi một thứ tình cảm mong manh nhưng ấm áp.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong hồi ký “Tu dois l’appeler Majesté” (tạm dịch: “Con phải gọi ngài là Bệ hạ”), Patrick viết rằng cha ông luôn giữ sự lịch lãm, nhẹ nhàng và trí tuệ. Nhưng ông chưa từng gọi cha là “cha”. Khoảng cách giữa hai thế giới – giữa một ông vua sống nửa thật nửa huyền thoại và một đứa trẻ sinh ra không được thừa nhận – không bao giờ hoàn toàn xóa nhòa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Ông chưa bao giờ nói 'ta yêu con'. Nhưng tôi biết, ông quan tâm.” – Patrick viết.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>IV. Sự im lặng của danh phận</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Patrick-Édouard chưa bao giờ được ghi vào gia phả chính thức của triều Nguyễn. Bảo Đại từng ngỏ ý làm thủ tục công nhận ông là con, trao tước vị "hoàng tử", nhưng ông từ chối.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Tôi không thấy cần thiết. Đó chỉ là một hình thức.” – ông nói trong một phỏng vấn với Le Courrier du Vietnam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông chọn sống như một người thường. Làm doanh nhân, sau này về hưu sống tại Strasbourg. Ông không mang họ cha, không khoe dòng máu quý tộc, cũng không bao giờ kiện tụng đòi thừa kế hay danh vị.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong thời đại mà người ta sẵn sàng làm mọi cách để được ghi tên trong lịch sử, Patrick chọn im lặng và tử tế – một sự vương giả hiếm thấy trong kỷ nguyên hỗn loạn.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>V. Thân phận lai: không quê hương nào đủ rộng</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Patrick mang trong mình dòng máu Á–Âu. Ở Pháp, ông là “người gốc Đông Dương”. Ở Việt Nam, ông là “người Pháp mang họ mẹ”. Ông từng nói:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Tôi không hoàn toàn thuộc về nơi nào cả. Nhưng tôi học cách yêu từng phần trong mình.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chính thân phận ấy khiến ông hiểu sâu sắc thế nào là chia cắt. Không chỉ giữa hai bờ đại dương, mà còn giữa hai lớp bản sắc: một bên là tính thực tế, lý trí của người Pháp; một bên là chiều sâu huyền thoại, cốt cách hoài niệm của người Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông sống giữa hai thế giới, và chưa từng đòi hỏi được chọn bên. Ông ôm lấy cả hai, như thể mình là nhịp cầu nối giữa những gì từng là đối lập.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>VI. Ký ức và khát vọng về cội nguồn</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong những năm gần đây, Patrick viết hồi ký, xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn, và bắt đầu chia sẻ câu chuyện đời mình – không phải để đòi công lý, mà để trả lại một phần tiếng nói cho lịch sử bị bỏ quên.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông mơ một ngày được đặt chân đến Huế, thắp nhang nơi mộ cha. Đứng trước thành nội rêu phong, giữa âm vọng cung đình cũ, ông không cần người gọi mình là hoàng tử – chỉ cần được nhìn nhận như một phần của Việt Nam, như một người con xa xứ trở về.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>VII. Lời kết: Người cuối cùng của một triều đại</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong thời đại mà những hậu duệ hoàng tộc tranh giành di sản, Patrick chọn lặng im. Trong một thế giới ồn ào danh lợi, ông viết sách, sống âm thầm, và giữ cho riêng mình một chiếc ngai – chiếc ngai bằng nhân cách và ký ức.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông là người cuối cùng mang dòng máu vua Bảo Đại – không ngai vàng, không sảnh lớn, không cận thần – chỉ có ánh sáng trong đôi mắt, và trái tim biết ơn một lịch sử đã sinh ra mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Lịch sử không cần biết tôi là ai. Nhưng tôi biết rõ tôi thuộc về đâu.” – Patrick-Édouard Bloch-Carcenac.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>📌 Ghi chú nguồn: – Le Courrier du Vietnam, bài phỏng vấn tháng 5/2025. – Hồi ký “Tu dois l’appeler Majesté”, Éditions du Panthéon, 2021. – Các nguồn phụ: DNA.fr, Vietnam-Aujourd’hui, bài viết tổng hợp từ Việt Nam và pháp</p></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/4c9d9fa83ee1dbc2321acbb0f5b70acf4d893124516ed1ab14d78a44806a6e94.jpg"alt="11. Tien Dung cong chua.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo Lĩnh Nam chích quái và các thần tích <i>“Tiên Dung nghe tin vua cha tức giận, sợ không dám trở về nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, lập phố sá, đổi chác với dân gian. Dần dần nơi ấy trở thành một ngôi chợ lớn, buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa”</i>.&nbsp; Nếu như đức lang quân của nàng - Chử Đồng Tử được tôn là “Chử Đạo tổ”, ông tổ “tu tiên” thì Mỵ nương Tiên Dung chính là “Bà tổ” nghề buôn bán nước ta vậy. Là công chúa con vua mà lại thành “bà tổ khởi nghiệp” rồi tu đạo thành tiên, chúng ta cùng xem thử một trong những hình mẫu người phụ nữ Việt thời kỳ Văn Lang như thế nào nhé!</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>SINH RA Ở VẠCH ĐÍCH</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Hùng Vương thứ 18 (tức nhành Hùng Duệ Vương) đời thứ 3 có một nàng Mỵ nương (con gái vua gọi là Mỵ nương, con trai gọi là Quan lang) tên là Tiên Dung, nhan sắc tuyệt trần, đã đến tuổi trưởng thành mà không chịu lấy chồng, chỉ thích ngao du sơn thủy. Hùng Vương yêu con gái, chiều theo ý nàng. Mỗi năm khoảng tháng hai, tháng ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh sông nước, vui chơi quên cả ngày về.” </i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể thấy Tiên Dung quả thực sinh ra ở vạch đích, lớn lên trong êm đềm, được yêu thương hết mực. Là công chúa cành vàng lá ngọc, đi đâu cũng có kẻ hầu người hạ, đến tuổi cập kê nhưng không chịu lấy chồng vẫn được cha chiều ý. Nàng may mắn hơn rất nhiều công chúa khác phải chấp nhận&nbsp; cuộc hôn nhân chính trị để giúp vua cha, vua anh, vua em giữ vững ngai vàng. Nàng tốt số hơn bao nhiêu cô gái khác phải làm khuê nữ loanh quanh trong vườn nhà góc bếp chẳng bao giờ được đi xa. Nàng cũng chọn một lối sống khác, không chịu lấy chồng dù đã đến tuổi trưởng thành. Để nàng được ung dung tự tại, tự do như thế hẳn là vua cha yêu thương nàng rất nhiều, nhiều tới độ có thể bỏ qua mọi phong tục tập quán. Và ngược lại, để được vua cha yêu thương đến vậy, tin tưởng cho thân gái một mình đi xa như thế chắc chắn Tiên Dung là người con gái không chỉ có sắc mà còn có tài, có tình yêu thương, có phẩm chất, đức hạnh hơn người.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1>&nbsp;Ý TRỜI HAY LÒNG NGƯỜI?&nbsp; &nbsp;&nbsp;</h1></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Vào một ngày đẹp trời Tiên Dung cho thuyền dạo chơi dọc sông Hồng, đi qua vùng Chử Xá (nay là Gia Lâm, Hà Nội). &nbsp;Lúc đó Chử Đồng Tử&nbsp;</i><i>(người đàn ông không một mảnh khố) đang ngâm mình bắt cá dưới sông, nhìn thấy từ xa đoàn thuyền dong buồm đi tới, sợ quá chàng liền chạy lên bờ nhằm khóm lau vùi mình xuống cát.&nbsp;Ngắm phong cảnh hữu tình, Tiên Dung liền cho dừng thuyền lại, sai thị nữ lên bờ quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Chử Đồng Tử sợ hãi định chạy trốn. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, thấy chàng hiếu thảo, bản tính thật thà, ngẫm là duyên trời định bèn nói: "Ta và chàng tình cờ gặp nhau thế này, âu cũng là nhân duyên do trời sắp đặt", liền đó nàng truyền mang quần áo cho Chử Đồng Tử và cùng chàng làm lễ kết duyên ngay trên thuyền.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người viết đặt ra câu hỏi nếu gặp phải tình huống như vậy một công chúa có thể xử lý thường dân kia thế nào? &nbsp;“Tên dân đen láo xược, dám khi quân phạm thượng với công chúa lá ngọc cành vàng. Người đâu lôi ra chém” =))) Có thể lắm chứ. Cứ xử trảm bịt đầu mối, diệt trừ hậu hoạ là xong. Đằng nào thì đó cũng chỉ là một tên dân đen nghèo hèn đến độ cái khố cũng chẳng có. Đằng nào thì Tiên Dung vốn không muốn lấy chồng. Đằng nào thì cũng chỉ có vài người biết việc này mà đều là người thân tín của công chúa, việc bịt miệng không hề khó. Chẳng phải Chử Đồng Tử cũng xác định tư tưởng, đã nghĩ tới cái chết nên mới sợ hãi định chạy trốn đó thôi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thế nhưng việc dễ không muốn lại đi chọn việc khó mà làm. Công chúa lá ngọc cành vàng chủ động ngỏ ý kết duyên với chàng trai không quen biết, không “nhà mặt phố bố làm to”, không tài sản phòng thân, không sính lễ cưới hỏi. Ừ cứ cho là có thể bởi tình yêu sét đánh đi nhưng một cô gái như Tiên Dung lớn lên trong giàu sang, đã từng ngao du khắp chốn không phải người không hiểu sự đời. Thì cứ cho là “duyên trời sắp đặt” đi, nhưng thân là Mỵ nương con vua, được giáo dục đàng hoàng tử tế sao nàng không biết vua cha, gia đình sẽ nhìn nhận thế nào mà lại “kết duyên ngay trên thuyền”. Lĩnh Nam chích quái có đoạn <i>“Hùng Vương giận bảo: “Tiên Dung không biết trọng danh tiết, không biết tiếc tiền của, đi chơi giữa đường lại hạ giá với người nghèo, còn mặt mũi nào mà thấy ta nữa. Từ nay mặc kệ nó, không cho về kinh nữa.” </i>Nàng không phải không biết hệ quả của quyết định đó, tại sao lại chọn thế khó cho mình? Người viết mạo muội nghĩ có lẽ là bởi tình thương người và lòng trắc ẩn, bởi nàng thật sự coi trọng tính mạng người dân thường cũng quý như tầng lớp quý tộc, bởi nàng cảm động trước lòng hiếu thảo của Chử Đồng Tử với cha, cảm thương cho cảnh ngộ nghèo hèn khốn khó của chàng. Trong tình yêu đôi lứa ẩn chứa cả tình thương người, lòng nhân ái và vị tha vậy. Bởi thế mối tình của Tiên Dung và Chử Đồng Tử có thể gọi là ý trời se duyên gặp gỡ, lòng người định cuộc hôn nhân. Và người quyết định ở đây là đàng gái, là Mỵ nương Tiên Dung. Nàng vốn tâm niệm không định lấy chồng, nhưng trong tình huống éo le như vậy, nàng chọn lấy chồng vừa là tin vào ý trời vừa là muốn cho chàng trai kia một con đường sống. Lòng nhân ái của Tiên Dung còn được thể hiện rõ khi sau này nàng lập chợ buôn bán không chỉ xây dựng kinh tế cho gia đình mình mà còn giúp người dân có cơ hội kiếm sống tốt hơn, hay khi thành đạo, nàng cùng chồng chu du khắp nơi truyền đạo cho người, dùng y thuật cứu nhân độ thế.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>KHỞI NGHIỆP TỪ HAI BÀN TAY TRẮNG</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đúng như dự đoán của tất cả mọi người, Hùng Vương nghe tin Tiên Dung tự ý lấy Chử Đồng Tử thì nổi giận lôi đình. Sao không giận cho được khi “ngoan xinh yêu” của cha mười mấy năm nâng niu chiều chuộng lại không thèm hỏi cha một câu báo cha một lời mà tự ý kết hôn. Sao không đau cho được khi mà bao mối tốt ngon lành cành đào vua cha chọn thì nàng không nghe, còn bảo không định lấy chồng, giờ thì hay chưa lại đi lấy kẻ nghèo hèn, bần cùng nhất thiên hạ. Đã thế thì đừng có vác mặt về đây nữa, đừng hòng động đến bất cứ tiền tài nào của ta, từ rày ta không có đứa con này, Tiên Dung không còn là Mỵ nương nữa. Thế là nàng công chúa của chúng ta từ vạch đích quay về điểm xuất phát, mất đi tước vị hoàng tộc, không có tài sản, không còn gia đình người thân, chỉ được một tấm chồng cũng vô sản nốt. Kể cũng cám cảnh, nghe cũng thảm thương. Nhưng Tiên Dung là người con gái thật sự dũng cảm, dám làm dám chịu, dám quyết định hôn nhân thì dám đồng cam cộng khổ với bạn đời, dám làm trái ý vua cha thì dám tự mình đi lên từ hai bàn tay trắng. Quả là tinh thần mạnh mẽ, bản lĩnh kiên cường của “bà tổ khởi nghiệp”. =)) Bởi chàng ở vùng sông nước thạo nghề đánh cá, bởi nàng sống ở kinh đô Phong Châu vốn biết trồng dâu nuôi tằm dệt vải, thế là hai vợ chồng chăm chỉ lao động tạo dựng cuộc sống. Xuất thân là công chúa vùng cao lại từng đi khắp nơi theo đường sông nước, Tiên Dung nhận ra nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các vùng miền để sản vật nơi này đều có thể tới tay người sống ở nơi khác, khi có chút vốn liếng nàng cùng chồng mở chợ rồi lập phố sá giao thương, mở ra nghề buôn bán cho người dân quanh vùng. Trời chẳng phụ lòng người dày công dốc sức, phố chợ của vợ chồng nàng ngày càng sầm uất, thịnh vượng, giao thương cả trong nước và ngoại quốc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Một hôm có khách buôn đến nói với Tiên Dung rủ chung mối làm ăn, đem vàng cùng ra nước ngoài mua hàng về bán sẽ có lãi to.”&nbsp; </i>Với trực giác nhạy bén của người làm kinh doanh, nàng nhận ra cơ hội tốt liền bảo chồng cùng hùn vốn với họ<i>. “Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Viên (nay là núi Nam Giới thuộc Hà Tĩnh), thuyền ghé lấy nước ngọt. Trên núi còn có ngôi cổ tự, Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chàng bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Chử Đồng Tử đã tu thành đạo, Phật Quang tặng chàng một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông. Về đến nhà Chử Đồng Tử truyền đạo lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán cùng chồng đi khắp nơi cứu nhân độ thế.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể thấy, Tiên Dung không chỉ là người phụ nữ khéo vun vén, một “doanh nhân nhạy bén trên thương trường” mà cũng là người vợ hậu phương vững chắc cho chồng. Nàng lấy chàng không một tài sản, không của hồi môn, nàng cùng chàng bảo nhau làm ăn gây dựng cuộc sống. Nàng khuyên chàng ra biển lớn làm giàu và nàng tin tưởng con đường chàng chọn, theo chàng học đạo tu tiên thay vì tiếp tục kiếm tiền. Nhờ thế mà Tiên Dung giác ngộ<i>. </i>Khi hiểu thấu<i> </i>đạo trời, hai vợ chồng từ bỏ phố chợ của mình, đem tài sản chia cho dân chúng rồi cùng nhau ngao du hành đạo, cứu giúp chúng sinh. Trước kia, nàng mở ra nghề buôn bán giúp bản thân và dân chúng gia tăng tài sản, có cuộc sống tốt hơn. Sau khi thành đạo, nàng không còn dính mắc vào tiền tài danh vọng, sẵn sàng buông nghề để làm việc thiện, việc có ý nghĩa, truyền đạo cứu đời, bốc thuốc cứu mạng giúp cho nhiều người hơn nữa. Khi từ bỏ mọi thứ ngoài thân lại là lúc có được tất cả. <i>“Ngày nọ, trong lúc trời tối, người đã thấm mệt, xung quanh hiu quạnh không nhà cửa, hai vợ chồng bèn cầm gậy che nón nằm dưới mà nghỉ. Nửa đêm chỗ ấy nổi lên thành quách, cung điện bằng châu ngọc, kho tàng đầy đủ của cải, không thiếu một thứ gì, lại thêm tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ lính hầu xúm xít quanh hai vợ chồng. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.” </i>Là bởi phúc đức của hai vợ chồng đã tới ngày hái quả, hai người từ bỏ gia sản từ nghề buôn bán lại càng sung túc, thịnh vượng hơn xưa. Khi nghèo khó hay lúc giàu sang vợ chồng nàng vẫn không quên hành đạo, tiếp tục tục giúp đời cứu người.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>ĐẠO HIẾU VÀ TỪ BI</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể nói Tiên Dung cùng chồng cứu đời độ thế chẳng nợ người dân, chỉ nợ một ân tình, một chữ hiếu với vua cha của nàng. Thế nên biến cố cần đến sẽ phải đến. <i>“Nghe tin vợ chồng Tiên Dung dùng phép lạ dựng thành quách, Hùng Vương cho là có ý tạo phản, liền xuất binh đi đánh dẹp. Quân nhà vua đến, người dưới xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng lệnh cha mình, chờ chịu tội. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi đất cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung và Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ sụp xuống thành một cái đầm rất lớn. Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là Hà Thị.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nếu như câu chuyện mở đầu bằng điểm sáng về lòng hiếu thảo của Chử Đồng Tử với người cha Chử Cù Vân, thì truyền thuyết khép lại vụt sáng ở việc Tiên Dung tròn chữ hiếu với vua Hùng. Cha không cho về, nàng chẳng dám về. Cha cho là phản loạn sai quân đi dẹp, nàng không kháng mệnh cha mà khoanh tay chờ chết. <i>“Chuyện này cũng không phải tự ta làm ra, cũng là trời run rủi. Ta đâu dám cự lại phụ vương. Sống chết nhờ trời, dẫu ta có bị phụ vương giết cũng không dám oán hận.”</i> Nàng tự thấy mình có lỗi khi làm cha tức giận mà từ mặt, nàng thấy mình có tội khi khiến cha phiền não, âu lo mà sai quân tiêu diệt. Nàng cũng không muốn vì mình mà liên luỵ sinh mệnh khác, khiến chiến tranh xảy ra, bao người rơi cảnh lầm than, sinh ly tử biệt. Nàng chọn quy hàng, nghe theo mệnh trời và bất bạo động. Trong lòng hiếu thảo với cha có cả đức hiếu sinh với dân chúng. Tiên Dung và Chử Đồng Tử đã sống vẹn toàn đạo hiếu và lòng từ bi. Bởi thế mà vợ chồng nàng thăng thiên, trở thành thần bảo hộ. Thành quách đến từ phép lạ cũng biến mất một cách kỳ lạ, chỉ để lại vết tích là đầm Nhất Dạ cùng truyền thuyết lưu danh muôn đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể nói Tiên Dung công chúa là một trong những hình tượng hiếm hoi về người phụ nữ Việt xưa được khắc họa rõ nét trong thần tích. Từ truyền thuyết về nàng, ta càng thêm yêu, thêm tự hào, thêm kính phục và ngưỡng mộ người phụ nữ tự do tự tại, dám là chính mình, dám chịu trách nhiệm, đảm đang tháo vát, chu toàn việc nhà lăn xả việc nước, vẹn toàn đạo hiếu chung thuỷ chữ tình và giàu lòng nhân ái, từ bi, trắc ẩn. Hình tượng Mỵ nương Tiên Dung vừa phản ánh hiện thực và có lẽ cả ẩn chứa ước mơ của người phụ nữ Việt cổ. Phụ nữ thời hiện đại ở thế hệ con cháu như chúng ta còn phải học “bà tổ nghề buôn” dài dài ha.😊</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/vua-dau-bep-van-lang-hung-chieu-vuong-lang-lieu"><div class="link-title">VUA ĐẦU BẾP VĂN LANG: HÙNG CHIÊU VƯƠNG LANG LIÊU</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Góc nhìn của một người phụ nữ Việt, viết cho Marguerite Duras</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi không biết tên cô. Người ta chỉ gọi cô là "con gái bà giáo Pháp nghèo sống ở Sa Đéc", cái tên nghe như một vết cắt buốt giữa vùng đất đầy nắng và nước. Lúc đó, tôi mới mười ba, còn hay lội ruộng hái rau muống cùng mẹ, đi ngang bến phà, có lần nhìn thấy cô. Cô đứng đó, áo lụa bạc màu, mái tóc rối, dáng vẻ chẳng giống ai. Người trong xóm gọi cô bằng những từ chẳng đẹp đẽ gì. “Gái Pháp mà sống như dân đen”, “con nít mà đi theo đàn ông Tàu”, “mất nết”...</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhưng có gì đó trong ánh mắt cô khiến tôi lặng đi. Không phải ánh mắt của kẻ buông thả, mà là ánh mắt của người đã quá mỏi mệt, đang cố níu lại chút sự sống trong thân xác gầy guộc. Có phải ai bước chân lên chiếc xe hơi đen bóng kia cũng là để tìm khoái lạc? Hay chỉ đơn giản là muốn thoát khỏi bữa cơm chan nước lã, thoát khỏi cái nhìn bạo lực của người mẹ đang ngày càng tuyệt vọng? Có ai từng nghĩ, người Pháp cũng biết nghèo, biết cô đơn, biết ngậm ngùi như chúng tôi?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng tôi – những cô gái Việt cùng thời với cô, cũng đâu khá hơn. Làm dâu năm mười sáu tuổi. Gánh hàng, giặt áo, chịu đòn roi vì một bát cơm sống, vì lời nói lỡ. Có chồng mà không được yêu, có con mà không được sống cho mình. Khác gì cô? Cũng là những thân phận đàn bà bị giam cầm trong khuôn phép, chỉ khác là cô chống lại – còn chúng tôi thì cam chịu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi nhớ lần duy nhất thấy cô khóc – dưới mưa. Không ai biết vì đâu. Người đàn ông Hoa đó có vẻ thương cô thật lòng. Nhưng yêu, trong một xã hội chia tầng như cái chợ, thì cũng chẳng đủ. Người đàn ông ấy có thể cho cô vàng, nhưng không thể cho cô sự chấp nhận. Còn cô – dù còn rất trẻ – dường như đã hiểu điều đó. Và vẫn chọn đi tiếp. Dù biết trước sẽ tan.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có lần tôi nghe má tôi nói lầm rầm bên mâm cơm chiều:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>"Người Tây nó lạ. Nó sống buông thả, nhưng mà hình như tụi nó sống vì chính nó hơn mình."</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lúc đó, tôi không dám cãi. Nhưng sau này, khi tôi đọc cuốn Người tình (L’Amant), tôi mới hiểu: cô không buông thả. Cô là người đàn bà bị dồn đến tận cùng và dám đi ngược dòng. Cô dùng thân xác làm ngôn ngữ cuối cùng để nói rằng: “Tôi đang sống, dù các người không cho phép.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Bao nhiêu năm trôi qua. Tôi không còn ở bên dòng sông Mekong ấy nữa. Tôi sống ở thành phố, làm nghề dạy học, như mẹ cô. Có học trò từng hỏi tôi về Duras, về chuyện cô gái Pháp nhỏ tuổi yêu đàn ông lớn tuổi. Tôi đã không giảng như sách dạy. Tôi kể lại ánh mắt của cô dưới mưa. Tôi bảo tụi nhỏ:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Hãy đọc để hiểu nỗi cô đơn của một con người, chứ đừng đọc để lên án.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cô gái Pháp ngày ấy – bị xã hội khinh thường, bị chính người Pháp bỏ rơi – có thể đã sống trong tủi hờn, nhưng không bao giờ cúi đầu. Cô mang nỗi đau ấy đi qua suốt tuổi trẻ, đi tới tận những trang sách cuối đời. Và từ đó, cô trở thành một phần ký ức không thể xoá của xứ sở này.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cô không chỉ là người tình của một người đàn ông Hoa. Cô là người tình của một vùng đất đầy rối ren, người tình của sự thật, người tình của nỗi nhớ – của một thời kỳ mà ai cũng chịu đựng mà chẳng ai dám nói ra.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dù cô không phải người Việt, tôi vẫn muốn gọi cô là “chị”.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chị đã dạy tôi rằng: Đôi khi, tự do không phải là một lá cờ, mà là một cái nhìn – nhìn thẳng vào thân phận mình và chấp nhận nó, với tất cả niềm kiêu hãnh và nỗi đau.</p></div>
Ảnh đại diện
ThangNguyen Tác giả mới
ThangNguyen Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chuyện về căn Penhouse đầu tiên tại Hà Nội của tôi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm đó, sau khi chia tay đám bạn thời đại học, tôi tách ra khỏi giới xã hội. Dù anh em thắc mắc nhiều, nhưng trong tay tiền không có, tôi vẫn quyết rời đi, vì chỉ có rời đi, tôi mới may mắn tìm được con đường dành cho mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày rời đi, tôi tá túc tại 1 căn nhà trọ ọp ẹp của cu em cùng lớp. Nó sống cùng bạn gái, sinh viên mà, 2 đứa nằm trong, tôi nằm ngoài mép giường.Buổi tối 2 đứa ý tứ, chuyện cũng chẳng có gì, thanh niên, bến xe, nhà ga, ghế đá công viên còn ngủ được. Nhà trọ nhỏ cũng đâu có sao.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sáng dậy, nhà vệ sinh công cộng xóm trọ sinh viên nghèo tôi chưa quen lắm, góc nào cũng hôi, cũng rêu phong và bùn đất. Ngồi cạnh bể nước, ca nước nhựa hồng hà màu hồng đang chuyển sang xanh vì rêu phong bám vào qua thời gian. Múc nước tôi chỉ rửa mặt, lấy bàn chải đánh răng đánh vội, quên đi cái thói quen ngủ dậy, lê la vệ sinh tắm nước nóng mỗi sáng sớm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ra đầu ngõ, xóm sinh viên nghèo, bên cạnh con nước đen ở ven đô Hà Nội. Quán trà đá dưới lũy tre già mọc sát bờ mương. Đám sinh viên giống tụi tôi, có lẽ vì ngán cái nhà vệ sinh công cộng đó, tụi nó ra ngồi sớm, làm bi thuốc lào, cốc trà đá đặc, lấy mùi hôi thuốc lào, lấp liếm đi cái mùi hôi răng miệng... tôi cũng như các bạn, cũng biết hút thuốc lào, trong cặp lúc nào cũng có bao thuốc lá, dù chẳng làm ra đồng nào, nhưng lúc nào cũng phì phèo điếu thuốc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi có cả buổi sáng đi bộ đến trường, vì xe máy cắm lấy 6tr, cho thằng bạn vay lãi 5k/ tr/ ngày. Để mỗi ngày có 30k, chia ra được đủ 3 bữa cơm chả với nước mắm...</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng đầu tiên cũng qua đi, 2 đứa em ngoan, tôi cũng biết ý nên ở ngoài nhiều, dành thời gian riêng cho 2 đứa. Những ngày tháng này đi học tôi thấy chữ nghĩa vào, đi trà đá, tôi làm quen được hầu hết bạn bè, các anh em trong xóm. Tôi tập thái cực quyền với 1 anh chủ tiệm cầm đồ to nhất khu sinh viên, thế là như thế nào đó, tôi hay nhận cắm hộ bạn bè, xe cô, máy tính, điện thoại với giá ưu đãi. Mỗi lần vậy, tôi có thêm vài đồng uống nước, ăn cơm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mấy đứa nhỏ ở cùng nó cũng khó khăn, sinh viên Miền Bắc, chẳng đứa nào chịu đi làm thêm cả. Bố mẹ gửi tiền lên thì ăn phở được đúng 1 tuần, còn 3 tuần nhịn. Tôi thấy thế không ổn. Mỗi đứa 10k/ bữa. Đưa tiền đây tôi tính... gạo thì về quê xách lên. 10k / bữa đủ mua thức ăn, canh rau thôi.4 đứa tôi có 240k/ tuần, vì 1 tuần có 1 hôm về quê lấy gạo, hoặc để tự do ra ngoài ăn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mỗi ngày tôi mua 30k/ tiền thịt, bỏ ăn cá, vì cá đắt, lại nhiều xương, nấu tốn ga, thịt ko bao nhiêu, đứa ăn đứa nhìn.Tôi ra chị hàng thịt, nói bán cho em 25k hoặc 30k mỗi bữa, đều như vắt chanh, bữa nào tôi cũng ghé mua. Chị thấy lạ mới hỏi, tôi bảo, em gửi chị luôn 5 ngày. Mỗi ngày 30k, cuối giờ e ra lấy, chị còn thịt gì thì cắt cho em thịt đó. Tụi e ăn lấy no, miễn sao nhiều là được. Thế mà, cứ lợn mới về, chị xẻo cho tụi tôi đầu tiên, rửa sạch rồi cho vào túi bóng, để tủ lạnh đàng hoàng, cho đến cuối giờ tôi về chị mới đưa. Ngày đó nghèo, mà được người ta đối xử tốt, cám ơn chị dữ lắm, mấy đứa nhỏ ngày nào đi qua, cũng tíu tít chào anh chị.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cô hàng rau, lúc đầu cũng như bao cô hàng rau khác, cũng nói thách, thế nhưng tôi chẳng mặc cả bao giờ, nói cháu chỉ có thế, cô cho cháu thêm quả ớt, quả chanh, hay tý rau thơm đc không? Mua nhiều, cô nhớ mặt mới hỏi, tôi cũng thành thật trả lời, tụi cháu vậy đó, ban ngày còn bận học trên trường, nhiều khi về muộn, cũng cố tý rau cho nó khỏe mạnh. Chả hiểu trời xui sao, từ bữa đó, bữa nào cô cũng nhặt rau cho, rồi xếp vào túi cẩn thận, khi thì cho thêm cái nọ, khi thì cho thêm cái kia. Đều vậy, mỗi tuần mình gửi cô 50k trước. Mình trả trước, sẽ lấy rau sau...</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vụ ăn uống, sinh hoạt giờ ổn hơn nhiều rồi. Mỗi chuyện vệ sinh cá nhân thực tình bẩn quá, tôi không quen. Sau này chơi với mấy anh em giang hồ xóm quen chỗ quán nước. Tôi tìm nhà, 1 tháng mấy anh em dọn đến 4 lần nhà trọ....nhưng cũng chẳng khá hơn, vì khung nhà trọ chỉ có thế.Cuộc sống cho tôi tồn tại, tôi vẫn phát triển được, học tốt hơn, sức khỏe tốt hơn, mọi thứ tiền bạc cũng kiếm được hơn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi lên mạng, tìm hàng kiểu điện thoại cỏ giá rẻ, mua rồi lại đăng lên mạng bán tiếp. Có lần, dù ở tận khu lĩnh nam. Tìm thấy hàng ngon giá rẻ nhưng ở tận Cổ Nhuế. Xa quá, tôi nói họ bớt thêm nữa ko, em sinh viên, xe cộ ko có, phải đi mượn nữa. Ưh thì, khách bớt cho 200k. Tôi mừng lắm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau nghĩ ra, mua của ông ở Lĩnh Nam sát bên nhà, tôi cũng nói mình ở tận Cổ Nhuế, thế là đơn nào cũng bớt thêm được 200k nữa...</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có chút tiền rồi, tôi bảo anh ra riêng ở, tôi thuê 1 căn trên nóc 1 nhà trọ nguyên căn 4 tầng, mấy cô sinh viên thuê lại, ở 3 tầng dưới, phía trên tum thì còn phòng thờ và sân thượng, được cái có nhà vệ sinh riêng. Chả ai ở, vì chẳng có giường chiếu gì, còn mỗi cái bàn thờ bỏ không. Tôi bảo để mình ở, 500/ tháng được không ? Tôi chỉ cần nhà vệ sinh. Ma ko đáng sợ bằng nhà vệ sinh bẩn, tôi dỡ 2 cánh cửa làm giường, trải cái chiếu lên, đỡ nằm trực tiếp xuống đất. Có internet, có chỗ ngủ, có nhà vệ sinh sạch sẽ, có sân thượng tập thể dục, với tôi lúc đó thì vậy là ổn....</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở nơi đó, tôi bắt đầu lại cuộc sống sinh viên đầy kỷ niệm của mình, với tình yêu, hy vọng, sự chia ly, sự dối trá, giận hờn và bồng bột. Nhưng giờ nghĩ lại, chính ngày tháng đó cho tôi biết bao bí kíp kinh doanh để áp dụng vào thương trường sau này...</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Còn tiếp...</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="https://static.xx.fbcdn.net/images/emoji.php/v9/t4c/1/16/1f642.png"alt=""style="max-width: 100%;"></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có một buổi chiều Sài Gòn, tôi ngồi trong tiệm sách cũ trên đường Trần Huy Liệu, bất chợt bắt gặp một quyển sách ố vàng, bìa nhũn ra như đã từng trôi qua nhiều kiếp tay người. Trên bìa, những con chữ ngoằn ngoèo, không phải kiểu chữ “xinh đẹp” của poster in màu hay bảng hiệu đèn LED hiện nay. Đó là chữ Quốc ngữ thời đầu, thứ chữ viết Việt – viết Nam – từng bị coi là ngô nghê, kém sang, nhưng đã làm nên cuộc cách mạng thầm lặng nhất trong lịch sử dân tộc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi mở sách. Những câu văn giản dị như lời mẹ ru, không cầu kỳ, không bóng bẩy. Nhưng ở trong đó, là cả một linh hồn của một thời đại đang học cách gọi tên chính mình bằng tiếng mẹ.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngôn ngữ Việt – không chỉ là phương tiện giao tiếp. Nó là di sản, là ký ức, là cả một thân phận. Có thời, người Việt phải vay mượn chữ Hán để ghi lại suy nghĩ của mình. Có thời, chữ Nôm trỗi dậy như một đứa con riêng của dân tộc – độc lập mà ngổn ngang, không ai giống ai. Rồi chữ Quốc ngữ xuất hiện, như một thứ ánh sáng mới mẻ. Đơn giản, dễ học, dễ dùng. Nhưng để được tin tưởng, để được yêu, chữ ấy đã phải đi một hành trình không ít đớn đau.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Giữa hành trình ấy, có một cái tên không thể không nhắc đến: Trương Vĩnh Ký – người được xem như “cầu nối giữa Đông và Tây”, là kẻ tiên phong cô đơn mở ra lối đi cho tiếng Việt hiện đại.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông không chỉ là học giả tinh thông hơn 20 ngôn ngữ, mà còn là người đặt nền móng cho văn chương và báo chí quốc ngữ. Từ những bản dịch truyện cổ, những bài giảng đạo đức, cho tới vai trò tổng biên tập Gia Định Báo – tờ báo quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam – Trương Vĩnh Ký đã dẫn dắt chữ Quốc ngữ bước ra khỏi bóng tối nhà thờ, hòa vào nhịp sống của đại chúng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông từng viết: “Ta phải dạy cho người An Nam học cách biết mình, học cách nói về mình, bằng chính tiếng nói của mình.” Một câu nói tưởng chừng đơn giản, mà chứa cả một khát vọng lớn lao: đem tiếng mẹ đẻ trở về với chính dân tộc mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhưng hôm nay, giữa một rừng biểu tượng, nhãn hiệu và từ vựng ngoại lai, tôi tự hỏi: ta còn giữ được bao nhiêu phần tinh anh của ngôn ngữ mình?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có khi nào, chúng ta đã để ngôn ngữ mẹ ru mình bị “mặc áo” quá chật – những câu nói cụt ngủn, những dòng status pha trộn Anh – Việt không đầu không đuôi, những bản nhạc thị trường nhạt nhòa như nước ốc?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có khi nào, trong cuộc chạy đua toàn cầu hóa, ta đã đánh mất thói quen viết một câu trọn vẹn, một lời chào có chủ ngữ – vị ngữ, hay đơn giản là một bức thư viết tay?</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi không cổ hủ, cũng không hoài niệm mù quáng. Tôi biết ngôn ngữ cần thay đổi để sống. Nhưng thay đổi không có nghĩa là bỏ quên. Mỗi con chữ là một hạt giống văn hóa. Nếu ta không trồng và chăm sóc, chúng sẽ khô héo.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Tìm lại ngôn ngữ Việt – viết Nam” không phải là trở lại với sách vở xưa, hay bắt ép ai đó nói như các cụ. Mà là một lời mời gọi – hãy sống với tiếng Việt một cách ý thức.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Gọi tên cảm xúc bằng tiếng mình. Viết lại ký ức bằng chữ mình. Dạy con thơ lời ru của bà. Gửi nhau một tin nhắn đủ đầy chủ ngữ. Đó là những cách ta gìn giữ tiếng Việt – không phải trong bảo tàng – mà trong từng hơi thở của đời sống hôm nay.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi gấp quyển sách cũ lại. Trời Sài Gòn sắp đổ mưa. Tôi thấy trong lòng mình cũng có một cơn mưa nhỏ – lặng thầm, dịu dàng. Mưa gột rửa, mưa tưới lại mảnh đất đã từng mọc nên tiếng gọi đầu tiên của dân tộc: tiếng Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Và tôi tin, một ngày nào đó, khi mỗi người Việt có thể viết và nói bằng thứ tiếng trong sáng và đẹp đẽ nhất của mình, thì chúng ta – dù đi đâu, về đâu – vẫn mãi là người viết Nam.</p></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trên dải đất dài cong hình chữ S, có những cái tên ngoại quốc mà người Việt không bao giờ quên: Alexandre de Rhodes – người La Tinh hóa tiếng Việt; Louis Pasteur – cha đẻ của ngành vi sinh học hiện đại; và rồi, có một người rất đặc biệt – Alexandre Émile Jean Yersin, người mà dân Khánh Hòa thân mật gọi là “Ông Năm”.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông không đến Việt Nam để cai trị, cũng không để truyền đạo. Ông đến với hành trang của một nhà bác học yêu con người, và ra đi với danh phận của một người Việt không quốc tịch.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/23fbfc3596638ab228a6377c5aff04fdca33c907c9ba405c2f854e00b94c9335.jpg"alt="504661789_1612575926088130_2813864334014027752_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người đời gọi ông là “Ông Năm”. Người Việt gọi ông là “người Tây có trái tim Việt”. Còn tôi – một người sống ở thế kỷ 21 – xin gọi ông bằng tất cả lòng kính trọng: người đi tìm ánh sáng giữa những khu rừng im lặng.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Từ Lavaux đến Đông Dương – người không chọn vinh quang</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Alexandre Émile Jean Yersin sinh năm 1863 tại Thụy Sĩ. Là học trò xuất sắc của Louis Pasteur, ông từng phát hiện độc tố bạch hầu, đặt nền móng cho ngành miễn dịch học. Thế nhưng, khi những người khác chọn Paris, vinh danh và giải thưởng, ông chọn Đông Dương – vùng đất xa lạ, chưa có điện, chưa có bản đồ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1890, Yersin đặt chân đến Việt Nam với hành lý là kính hiển vi, sách y học và trái tim không ngừng tìm kiếm.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Ngày 21 tháng 6 năm 1893 – Đà Lạt trong sương mở mắt chào ông</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi còn nhớ, đó là một buổi sáng tháng Sáu, mưa bụi và gió lạnh ở Lang Biang. Không ai nhắc tới ngày này trên sách lịch. Nhưng đối với tôi, ngày 21 tháng 6 là một mốc vàng – ngày ông bước vào cao nguyên và phát hiện ra Lang Biang, nơi sau này trở thành Đà Lạt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đọc lại dòng ghi chú ngắn gọn của ông:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Khí hậu trong lành, đất tốt, nước nhiều – có thể lập trạm dưỡng bệnh.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi không thấy sự kiêu hãnh. Chỉ có một sự tin tưởng sâu lắng rằng con người xứng đáng được chữa lành. Và từ đó, vùng đất hoang sơ này trở thành thành phố mộng mơ cho bao thế hệ.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Không vợ con – Yersin chọn Việt Nam làm nhà, khoa học làm bạn đời</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông sống như một người Việt: mặc áo bà ba, ăn mắm, đi dép râu, sống trong một ngôi nhà gỗ nhỏ ở Suối Dầu. Ông không lấy vợ. Không xây biệt thự. Không mua đất.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Tôi lấy nhân loại làm vợ, khoa học làm con, Việt Nam là nhà.” – người ta truyền lại lời ông như thế.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Dịch hạch, canh ki na, trường y – khoa học phụng sự con người</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1894, dịch hạch tàn phá Hồng Kông. Không ai dám đến. Ông đến. Một mình, với kính hiển vi và lòng can đảm. Tại đó, ông phát hiện vi khuẩn dịch hạch – về sau được đặt tên là Yersinia pestis.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông sáng lập Viện Pasteur Nha Trang, điều chế huyết thanh, mở Trường Y Hà Nội, nghiên cứu nông nghiệp, thiên văn, khí tượng… nhưng chưa từng treo bằng cấp trên tường.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Nếu tôi không vào vùng dịch, thì ai vào?” – một câu hỏi đơn giản, nhưng để đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Người ra đi trong yên lặng, để lại một đất nước ghi nhớ</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông mất năm 1943 tại Nha Trang. Không kèn trống. Không quốc tang. Nhưng hàng nghìn người dân tự lập bàn thờ, để tang ông như cha. Mộ phần ông nằm khiêm nhường bên đồi Suối Dầu, chỉ có tên: YERSIN.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không tượng đài. Nhưng tên ông hiện diện trong:</p></div><div class="block-wrapper" type="list"><ul list-style="unordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Đại học Yersin Đà Lạt </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Bảo tàng Yersin ở Nha Trang </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Các con đường mang tên Yersin tại TP.HCM, Hà Nội, Đà Lạt </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Và trên hết, trong lòng hàng triệu người Việt. </div></li></ul></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Hôm nay – người hậu thế cúi đầu trước người đi trước</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi đứng giữa Đà Lạt hôm nay – nơi người ta đi dạo với latte, selfie và sách ảnh. Tôi ngước nhìn lên Lang Biang, và thấy ông – không phải bằng mắt, mà bằng ký ức đất trời. Ông vẫn đi giữa rừng thông, với sổ tay, ánh mắt hiền và trái tim không ngừng sống cho người khác.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày 21 tháng 6 năm ấy, ông chỉ lặng lẽ ghi vào sổ. Còn hôm nay, tôi xin lặng lẽ ghi vào lòng:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cảm ơn ông, Ông Năm – người đã sống trọn một đời cho Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h2>Kết</h2></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có những người đi qua đời ta như cơn gió. Có những người ở lại như cánh rừng. Và Alexandre Yersin – ông không cần thuộc về lịch sử – Vì ông đã trở thành một phần của đất nước này.</p></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="header"><h3>Mở đầu: Khi Sài Gòn chỉ là một khoảng mờ trên bản đồ</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có những buổi chiều đi bộ giữa trung tâm Sài Gòn, tôi ngước nhìn những vòm mái cong cong của Bưu điện Thành phố, ánh nắng loang lổ qua hàng me cổ thụ đường Lê Duẩn, lòng chợt tự hỏi: Ai là người đầu tiên mơ về một thành phố nơi đây?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trước khi có những đại lộ dài hun hút, trước khi có tiếng chuông ngân vang từ nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn từng chỉ là một vùng đất thấp, rạch ngang rạch dọc, những xóm làng mọc lên theo sông nước. Không quy hoạch, không sơ đồ, không kiến trúc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Rồi người Pháp đến.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mang theo vũ khí, dĩ nhiên. Nhưng cũng mang theo những bản vẽ, những cây thước và ý niệm về một đô thị – thứ mà người bản xứ khi ấy còn lạ lẫm. Họ không chỉ chinh phục bằng súng đạn, mà bằng chính những nét cọ kiến trúc đầu tiên, họ vẽ nên một Sài Gòn – Paris của phương Đông.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>**Giai đoạn 1: 1859 – 1870</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Từ thành Gia Định đến thị trấn thuộc địa đầu tiên**</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1859, đại bác nổ vang trên thành Gia Định. Cuộc xâm lược bắt đầu. Nhưng sau làn khói thuốc súng, người Pháp dần hiện lên không chỉ như kẻ chiếm đóng, mà như những kiến trúc sư của một giấc mơ mới: biến đất lầy thành phố thị, biến một làng quê thành “thành phố ánh sáng” bên kia địa cầu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Họ xây pháo đài, nhà kho, bệnh viện quân sự. Những con đường đất đỏ đầu tiên được mở ra, thẳng băng, chia ô như bàn cờ. Thành phố chưa có tên chính thức, nhưng người ta bắt đầu gọi nó là “Sài Gòn của Tây” – một nơi lạ lẫm, có trật tự, có cột đèn dầu, có lính gác mang mũ sắt.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>**Giai đoạn 2: 1870 – 1900</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sài Gòn – Paris thu nhỏ giữa lòng Đông Dương**</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nếu giai đoạn đầu là phác họa, thì ba thập kỷ cuối thế kỷ 19 là lúc người Pháp thật sự vẽ nên Sài Gòn. Không còn là pháo đài quân sự, Sài Gòn trở thành một đô thị quy hoạch – với đại lộ, quảng trường, khu hành chính, nhà thờ, trường học, rạp hát.</p></div><div class="block-wrapper" type="list"><ul list-style="unordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Nhà thờ Đức Bà khánh thành năm 1880, được xây hoàn toàn bằng gạch nhập từ Marseille. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Bưu điện trung tâm là tuyệt tác kiến trúc giao thoa giữa Gothic và kỹ thuật Pháp, nội thất mang hơi hướng của Gustave Eiffel. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Tòa Thị Chính (sau này là UBND TP.HCM) rực rỡ sắc vàng – một cung điện nhỏ giữa nắng nhiệt đới. </div></li></ul></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người Pháp cho trồng hàng me, hàng sao, quy hoạch hệ thống thoát nước – điều mà không một thành phố Việt Nam nào khi đó có được. Họ không xây ngẫu hứng. Họ vẽ một bản đồ, chia lô từng khu dân cư, tạo thành những khu phố có trật tự, phong cách.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>**Giai đoạn 3: 1900 – 1930</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đô thị hóa hiện đại và hình thành bản sắc**</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đây là thời kỳ Sài Gòn đạt đến đỉnh cao kiến trúc đô thị thuộc địa. Người Pháp không chỉ dựng công trình mà còn thiết lập “lối sống Tây phương”: cà phê, rạp chiếu phim, tàu điện, trường học Pháp – Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="list"><ul list-style="unordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Xe điện Sài Gòn – Chợ Lớn bắt đầu hoạt động từ năm 1896. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Đường ray xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho được khai thông, nối giao thương Nam kỳ lục tỉnh. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Cảng Sài Gòn hình thành, biến thành phố trở thành cửa ngõ giao thương lớn nhất Đông Dương. </div></li></ul></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dưới bàn tay quy hoạch của người Pháp, Sài Gòn bắt đầu biết tận hưởng cuộc sống đô thị: công viên, Thảo Cầm Viên, khách sạn Continental, rạp Eden... Tất cả đều như phiên bản thu nhỏ của Paris, nhưng mang hương rừng phương Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>**Giai đoạn 4: 1930 – 1945</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Hơi thở cuối cùng và cuộc giao thoa Đông – Tây**</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thập niên 1930 trở đi, người Pháp chuyển từ kiến trúc cổ điển sang kiến trúc Đông Dương – một phong cách do kiến trúc sư Ernest Hébrard khởi xướng: kết hợp mái ngói Á Đông với khung nhà Pháp, tận dụng ánh sáng, thông gió và hài hòa với khí hậu.</p></div><div class="block-wrapper" type="list"><ul list-style="unordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Những biệt thự kiểu mới xuất hiện ở khu Đa Kao, Thị Nghè, Phú Nhuận. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Một thế hệ kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên bắt đầu học nghề và tiếp thu tư tưởng thiết kế từ Pháp. </div></li></ul></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhưng rồi chiến tranh đến. Nhật Bản chiếm Đông Dương năm 1940. Người Pháp mất dần quyền kiểm soát. Các công trình lớn bị gián đoạn. Lần đầu tiên kể từ khi đặt chân đến Sài Gòn, họ trở thành kẻ yếu thế ngay trên đất mà họ từng vẽ nên.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Lời kết: Một bức tranh có nhiều bàn tay</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người Pháp không phải là những người đầu tiên yêu Sài Gòn. Nhưng có lẽ họ là những người đầu tiên nhìn nó như một khung vải trắng, đủ lớn cho một giấc mơ kiến tạo đô thị kiểu châu Âu. Họ đặt những nét cọ đầu tiên, tạo nên bố cục – dù đậm tính thuộc địa – nhưng không thể phủ nhận: nó tạo tiền đề cho một thành phố hiện đại đầu tiên của Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau năm 1945, người Pháp dần rút đi. Nhưng bản đồ, cột mốc, tên đường và cả những vòm cong, ô cửa... vẫn còn đó. Người Việt tiếp nối công cuộc xây dựng thành phố – với bản sắc mới, với nỗi đau chiến tranh và khát vọng hồi sinh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Hôm nay, nếu ai đó đứng trên đường Đồng Khởi, nhìn lên bức tường gạch đỏ nhà thờ Đức Bà, rồi nhìn sang ánh đèn led lung linh của Vincom, sẽ thấy Sài Gòn không bị đứt đoạn. Nó là sự tiếp nối. Một bức tranh có nhiều lớp, nhiều tay vẽ, nhưng đều yêu ánh sáng trên vùng đất này.</p></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có những cái tên, qua năm tháng không phai – không phải vì người đời thường nhắc đến, mà vì chính bản thân họ đã viết nên một chương sử rực rỡ, dẫu im lặng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đỗ Hữu Vị, người con trai út của Tổng đốc Nam Kỳ, từ Chợ Lớn bôn ba sang trời Âu năm mười bốn tuổi, bước vào đời bằng gươm súng, kết thúc bằng đôi cánh thép giữa chiến địa Somme. Giữa cơn gió lộng Paris, có ai nghe tiếng máy bay rung lên năm 1910, khi một người Đông Dương dám khoác lên mình bộ đồ phi công – thứ vốn dĩ chỉ dành cho người Pháp da trắng?</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/dbd82e1e5d54ca2036f4c431e3037ef2148c589b19d95d088fcffa0978bec8b2.jpg"alt="465397629_9090486950996729_7956706790343078721_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Anh đã từng bay qua những miền nắng cháy ở Morocco, nơi cát bụi hoang mạc và súng đạn chẳng hề biết thương hoa tiếc ngọc. Những chuyến trinh sát đầu tiên của người gốc Á đã khiến nước Pháp sửng sốt: "Lì lợm, can trường và chính xác." Một tờ báo Pháp thời ấy viết: “Đỗ Hữu Vị bay không phải để làm đẹp cho thuộc địa, mà để nhắc nước Pháp rằng, Đông Dương cũng có người tài.”</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/3613833a71eb2de341a46565294610e441059c2be5e2ecda8211ab382c6e1a47.png"alt="465593331_9090486947663396_6646466377352378578_n.png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1914, khi cả châu Âu chìm trong máu và khói, anh xin ra trận. Một sĩ quan Pháp da vàng, điều gần như không tưởng thời bấy giờ, đã bay vào vùng đất kẻ thù – mang về những bản đồ chiến lược giúp Pháp giữ thế thượng phong. Một tai nạn suýt đoạt mạng không khiến anh ngưng lại. Khi không còn bay được nữa, anh rời buồng lái để cầm súng. Một lần cuối, tại cánh đồng Somme, giữa đạn pháo mịt mù, người sĩ quan ấy hô lớn, xông lên cùng tiểu đoàn Lê Dương, ngã xuống trong tiếng hô “Vive la France!” và... trong thinh lặng của đất mẹ Việt xa xăm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Gần một thế kỷ sau, nước Pháp dựng nên Place Đỗ Hữu Vị, một quảng trường trang trọng giữa Paris, nơi giao nhau giữa đại lộ Versailles và phố Louis Blériot – người thầy hàng không năm xưa của anh. Trên tấm bảng đá, hàng chữ khắc bằng tiếng Pháp hiện lên: “Phi công, tử trận tại mặt trận Somme cho đất nước An Nam và cho nước Pháp.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không phải ai cũng có một con đường mang tên mình. Và càng hiếm hơn, một người Việt, được nước Pháp khắc ghi như một phần không thể thiếu trong lịch sử cộng hòa của họ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có lẽ điều khiến người ta xúc động không chỉ là chiến công, mà là lựa chọn của một người Việt trong thời đại thuộc địa: sống không cúi đầu, học giỏi hơn cả người bản xứ, bay cao hơn những định kiến, và hy sinh như một công dân danh dự.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở đâu đó trong lòng nước Pháp, khi hoàng hôn rơi trên cầu Grenelle, những cánh chim mòng biển vẫn sải bay ngang quảng trường mang tên anh. Có thể người qua đường sẽ không biết về anh, nhưng nước Pháp – và cả quê hương này – nên nhớ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Anh là cánh chim An Nam, đã từng bay giữa trời Âu bằng đôi cánh dũng cảm và một trái tim rực sáng.</p></div>
Ảnh đại diện
An Vivian Nhà phân tích
An Vivian Nhà phân tích