Ảnh đại diện
henry nguyen Tác giả uy tín
henry nguyen Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Việt Nam – một trong những quốc gia uống cà phê nhiều nhất châu Á, với văn hoá cà phê vỉa hè độc đáo, cà phê sữa đá đậm đặc, cà phê trứng sóng mịn, cà phê phin chậm rãi... Chúng ta pha cà phê rất ngon. Nhưng đã bao giờ bạn tự hỏi: Ai là người Việt đầu tiên pha một ly cà phê? Ai là người đầu tiên ngồi xuống và nhâm nhi nó trong sự tĩnh lặng như một nghi lễ? Không ai biết. Và cũng chẳng có bức tượng nào dựng lên cho người pha chế đầu tiên.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/52b49883bb73ccdbaf40e0ec300bbfa117f01ddf196e0e7b9d38e909f7228fd4.jpg"alt="508150363_1617026148976441_7642489996275536483_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cũng như cách hạt cà phê đến với Việt Nam: lặng lẽ và đầy nhân duyên.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1857, các linh mục truyền giáo người Pháp mang theo giống cà phê Arabica đến Việt Nam, gieo trồng nơi vườn các tu viện miền Trung. Họ không mang nó đến để buôn bán, mà đơn giản là để sống – và tỉnh táo – trong những vùng đất xa xôi, khi lời cầu nguyện cần một ly cà phê nóng đồng hành.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Gần 70 năm sau, một người Pháp khác cũng mang cà phê vào lòng đất Việt, nhưng với một lý do khác: niềm tin vào nông nghiệp. Tên ông là Eugène Poilane, sinh năm 1888, từng là lính pháo binh, rồi trở thành nhà thực vật học, và đặc biệt – học trò thân tín của bác sĩ – nhà thám hiểm huyền thoại Alexandre Yersin.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Yersin gieo khoa học lên cao nguyên Lâm Viên, mang giống quinquina và cao su đến Đông Dương. Còn Poilane – theo bước người thầy – mang đến nhiều hơn một giống cây: ông mang cả một hệ sinh thái nông nghiệp ôn đới đến rừng núi nhiệt đới Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tại đồn điền ở Khe Sanh, năm 1926, Poilane gieo trồng cà phê Arabica Typica (giống Chiari), nhưng không dừng lại ở đó. Ông mang đến:</p></div><div class="block-wrapper" type="list"><ul list-style="unordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Giống mận, mơ, đào từ Pháp và vùng cận nhiệt, trồng thử nghiệm ở các vùng cao lạnh như Lào Cai, Hà Giang, Đà Lạt. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Cây hồ tiêu, các loại quế, hồi, và gỗ quý như lim, dổi, trắc – được thu thập, nghiên cứu và nhân giống. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Cây lấy tinh dầu, cây thuốc, cây ăn quả bản địa và du nhập, nhằm tìm hiểu khả năng phát triển nông nghiệp bản xứ. </div></li></ul></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không chỉ trồng – ông còn sưu tầm hơn 36.000 mẫu thực vật Đông Dương, gửi về Trung tâm Thực vật học Paris. Nhiều loài cây sau này được đặt theo tên ông, ví dụ: Nepenthes poilanei – loài nắp ấm quý hiếm ở Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Poilane chính là người làm cầu nối giữa khoa học thực vật châu Âu và sự phong phú sinh học của Đông Dương.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhưng chính cà phê là di sản sâu nhất của ông với Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cà phê Arabica ở Khe Sanh – cao 400m, đất đỏ, khí hậu lạnh sương – phát triển vượt bậc dưới tay ông và người dân địa phương. Đồn điền của ông trở thành nền móng cho ngành cà phê đặc sản Arabica tại Quảng Trị, trước khi lan sang Lào và vùng núi phía Bắc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông sống như người Việt, lấy vợ Việt, có con, ở lại nơi ông chọn làm đất tâm linh. Và ông cũng chết như một người Việt: bị phục kích trong chiến tranh năm 1964, không trở về Pháp, mà nằm lại giữa rừng xanh đã từng mọc lên từ tay ông.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/809bd5263109d30830b4ab97948cb863a1598648846eaece40f3b4b928acd3e1.jpg"alt="508336455_1617259562286433_7194097272592698719_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng ta không nhớ ai là người đầu tiên pha cà phê ở Việt Nam. Nhưng ta biết rõ ai đã gieo trồng cả một nền văn hóa cà phê Arabica vào đất đỏ núi rừng – đó là Eugène Poilane. Và trước ông, là những linh mục vô danh, gieo niềm tin bằng cả Thánh Kinh lẫn hạt giống.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Từ đức tin đến lao động, từ Chúa đến đất, từ Pháp đến Việt Nam – hành trình của cà phê là hành trình của ký ức lặng lẽ. Và hôm nay, mỗi khi ta nhấp một ngụm cà phê phin nhỏ giọt, chậm rãi giữa phố phường Sài Gòn hay bên đồi Khe Sanh mù sương, ta đang tiếp nối một mạch sống thầm nhưng bền vững.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Một ly cà phê – không chỉ đắng, mà còn dày dặn thời gian.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Tài liệu tham khảo:</h3></div><div class="block-wrapper" type="list"><ol list-style="ordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Lecourrier.vn – Le prince Patrick-Édouard Bloch: De ses souvenirs avec son père empereur au souhait de retour aux origines → Bài phỏng vấn có đề cập đến lịch sử nông nghiệp thời Đông Dương và vai trò của người Pháp tại Việt Nam. <a>https://lecourrier.vn/le-prince-patrick-edouard-bloch-de-ses-souvenirs-avec-son-pere-empereur-au-souhait-de-retour-aux-origines/1282339.html</a> </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">“Le rôle de M. Eugène Poilane dans l'introduction du caféier au Vietnam”, Archives de l’Indochine, Paris, 1932. (Vai trò của Poilane trong việc đưa giống cà phê Typica đến Việt Nam – tài liệu lưu trữ Viện Viễn Đông Bác Cổ.) </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Nguyễn Văn Chính (2018), “Lịch sử cây cà phê Việt Nam”, NXB Tổng hợp TP.HCM. (Tác phẩm khảo cứu chi tiết các giống cà phê và lịch sử đồn điền thời Pháp.) </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Trung tâm Bảo tồn Thực vật IRD (Pháp) – Hồ sơ 36.000 mẫu thực vật do Poilane gửi từ Đông Dương (1915–1945). </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Sách “Alexandre Yersin – Người Á Đông da trắng” của Patrick Deville – nêu rõ ảnh hưởng của Yersin đến thế hệ học trò như Poilane. </div></li></ol></div>
Ảnh đại diện
Vi An Tác giả mới
Vi An Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>06:00 AM</b>, xe thả chúng tôi trên đường Sơn Đừng, con lộ đâm ngang bờ cát của bán đảo. Từ đây chúng tôi bắt đầu dấn thân vào vùng đất hoang vu không sóng, tự biệt lập với nhân gian. Sợ chưa đủ phiêu lưu, trời đương thả nắng vàng ruộm ầm ầm đổ mưa.&nbsp;6:00 AM</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thực ra, khách đường trường kinh nghiệm luôn biết nhìn trời để bắt mạch nắng mưa, ví như: “Vảy trút trời mưa/Nhả bừa trời nắng”. Nghĩa là, nếu trên trời mây tĩnh hiện lên như vảy cá thì trời sẽ chuyển mưa. Còn nếu mây gom từng đám nhỏ, xếp thành dãy dài như nhả bừa thì trời dai dẳng nắng.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Hôm đó mây trời nhẹ tênh, như vụn bông rơi rớt, không thể tích mưa to. Hướng dẫn viên cũng liên tục trấn an đây chỉ là một cơn mưa giả, nhưng đội hình khởi động đã nháo nhào vỡ trận.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy vậy, dẫm cát lún và băng qua cơn mưa chóng vánh khiến người đi tan tành cơn ủ ê ngái ngủ mà năng nổ hẳn lên. Còn chút tả tơi sau cơn mưa cũng chẳng xá gì. Khu vực gió mùa lại cận biển, gió mang hơi nước mát dịu từ ngoài khơi thổi vào, phe phẩy nên bầu không nhẹ nhàng dễ chịu, chẳng mấy chốc mà hong khô hết thảy ướt át.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>06:40 AM</b>, dấn sâu vào hoang hoải cát vàng. Quanh quất là thảm thực vật bán sa mạc. Tàn phi lao treo đầy hạt mưa, phản chiếu nắng mai như pha lê lấp lánh. Muống biển bò loang lổ, trổ hoa tím ngắt, phủ lên cồn cát hoang liêu một chiếc áo choàng sinh khí. Biển thấp thoáng xanh ở cuối chân trời, vẫy gọi đoàn người hướng về.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vượt qua vài người, bị vài người vượt qua. Mọi người bắt đầu kết nhóm, trò chuyện rộn rã. Còn tôi vẫn chỉ là một kẻ đứng ngoài, đến một mình, đi một mình giữa đoàn người. Thứ làm tôi bận lòng hơn là nỗi xúc động khi chạm biển. Bầu trời vẫn còn ngậm nước sau cơn mưa, tựa tấm gương bạc rọi đại dương, biển trời vô biên không còn phân ranh giới.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Một cô bạn đồng hành xăm kín tay lao nhanh về biển, vỡ òa như trẻ dại. Phong cảnh thêm động lòng khi có trái tim nhiệt thành của cô điểm tô. Trước mắt cô, giữa mênh mang biển trời một sắc, có con thuyền nhỏ chênh chao về bờ tìm nơi neo đậu. Tách! Lưu lại một tấm hình, cảm thấy cảnh sắc này chỉ gặp được một lần trong đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Men theo lối mòn dọc biển, cả đoàn ghé trạm dừng chân đầu tiên, quán nước mái tranh dựng bên bãi cắm trại xe địa hình có thể chạy vào. Khu vực con người còn khả năng lai vãng, dấu tích rõ ràng nhất là phế thải nilon họ rải lại, chẳng khác nào những lỗ thủng trên mảnh gấm hoa của đất trời.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Uống ly nước chanh thanh mát, bắt gặp nụ cười giòn tan của cô chú hàng nước. Những người phải lui tới tận nơi đất trời tịch mịch để mưu sinh, là duyên đời đưa đẩy, hay vốn không còn lưu luyến phồn hoa, chỉ muốn nương mình nơi sơn cước?</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/ea41a5bb26b0c0a0ed0fb2bd12da8e77e5949fd5e9f8457288d01cb2c94f892b.jpg"alt="DSCF3426.JPG"style="max-width: 100%;"></div>
Ảnh đại diện
Vi An Tác giả mới
Vi An Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="header"><h1>06:00 PM - Khởi hành</h1></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>06:00 PM</b>, xe từ Thành phố Hồ Chí Minh xuất phát. Sẽ mất khoảng 8 tiếng để đến điểm khởi hành ở Đầm Môn. Trước khi lên đường, tôi phải trải qua một cuộc “điều trần” với em gái mình. Cô bé cho rằng đơn độc lữ hành là một hành động mạo hiểm. Phải trấn an em. Tôi xuất phát một mình, nhưng hành trình trekking có người dẫn đường và đồng bạn chung ý chí.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Những ý niệm tương đồng sẽ dẫn dắt người lạ tụ về gặp gỡ. Thực sự tận hưởng việc lên đường một mình. Thích cái tôi xuất hành đơn độc của mình. Không vướng bận thân nhân bè bạn, chỉ cần bồi tiếp chính mình, đến đi tùy ý. Đủ kiến thức, phần trăm xảy ra rủi ro bé nhỏ. Và tôi cũng sàng chấp nhận họa chăng.&nbsp; </p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>05:00 AM</b> hôm sau, Đầm Môn hậu đãi khách viễn phương bằng một ly cà phê thơm nồng giữa bình minh rạng rỡ. Nhưng không nhiều thời gian tận hưởng, những kẻ dấn thân lục đục sửa soạn hành trang. Nhận nước và áo mưa, tuyên bố mất liên lạc với thế giới trong 2 ngày. Mọi sự thiếu sót sẽ không thể vãn hồi đến khi hoàn thành chặng đường và trở lại lữ quán.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Hành trang lên đường tiết chế: hai bộ đồ gọn nhẹ, đồ bơi, mũ xếp, pin dự phòng, bình giữ nhiệt, quạt gấp. Một cuốn sách gối đầu, không quên kem chống nắng và dưỡng ẩm. Dẫu xiêu bạt phương trời, cũng không quên nghĩa vụ của mình với đời là đẹp. Nuôi dưỡng cái đẹp nội tâm cũng không bạc bẽo vẻ ngoài.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhìn qua bản đồ nơi mình đặt chân đến. Sơn mạch từ núi Đại Lãnh chạy qua đèo Mã Cảnh, đâm xiên ra biển theo hướng Đông Nam tạo thành một bán đảo dài gần 30 cây số. Dải đất có đường cát chạy dài, tương truyền là mồ chôn vạn thuyền.&nbsp; </p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mấy năm gần đây vẫn có người đào được những cột buồm, dây neo, ván ghe vùi mình dưới lớp cát vàng. Có thể hình dung, dưới biển có một dãy đá ngầm, đâm thủng và nhấn chìm tàu thuyền qua lại. Ngày qua tháng lại, xác tàu dạt bờ, chồng chất lên nhau thành một dãy chướng ngại vật ven biển, gió cát bị đánh từ ngoài xa vào vướng lại, lâu ngày tích tụ nên bãi cát ngút dài này.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mảnh đất chôn thuyền ngày nay là “mỏ vàng” cả về kinh tế lẫn du lịch của tỉnh -&nbsp; bán đảo Hòn Gốm, thuộc Vạn Ninh, Khánh Hòa. Hành trình trekking của tôi sẽ bắt đầu vùng cát cuối cùng của dải đất này, đi qua muôn kiểu địa hình để tiếp cận Mũi Đôi, nơi cái chạm tay của đất liền vươn xa nhất vào biển Đông.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/1b7f2008a19232ebeda1fbe80e61a5bf79f60bba3c418f63ff9b67b008a4af14.jpg"alt="b?n ?? c?c ??ng.JPG"style="max-width: 100%;"></div>
Ảnh đại diện
Vi An Tác giả mới
Vi An Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="header"><h1>02:00 AM - Trước chuyến đi</h1></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>02:00 AM</b> cuối tuần, xem xong một bộ phim, ngủ thiếp trên sô pha. Tỉnh dậy trong nắng mai, ráng vàng tưới đẫm mày mắt. Mở điện thoại, tin nhắn ting ting liên hồi. Vài người lạ hữu ý bắt chuyện, hội chị em trò chuyện suốt ngày đêm. Một avatar quen thuộc với hộp thoại rỗng tuếch. Chợt thấy thế giới bên kia chiếc smartphone chẳng liên quan gì đến mình, sợi dây kết nối với loài người tạm thời đứt nguồn. Buông lơi hết thảy, ngửa mặt tắm nắng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p> Bộ phim đêm qua tên <i>Xa ngoài kia nơi loài tôm hát</i>. Hai tiếng đồng hồ mở ra cuộc đời một cô gái, bị bỏ rơi bên đầm lầy hoang dã Bắc Carolina, tự mình mưu sinh bằng trồng trọt, đào vẹm đổi lấy lương thực và xăng. Bi kịch tuổi thơ lu mờ trong những niềm vui gom nhặt của Cô gái Đồng lầy. Thu lượm lông chim, vỏ sò; ngóng đợi đàn ngỗng thiên di; tô vẽ những sinh vật đầm lầy và tri giao cùng thiên nhiên. Một đời chìm nổi của cô có vạn vật vùng đầm lầy làm chân lý và lẽ sống.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mặc cho thế giới lãng quên, sinh mệnh và sự tồn tại của nữ chính vẫn hiện hữu mạnh mẽ. Cô là mặt nước, nơi tôi thấy một phần hồn mình được soi rọi và phản chiếu. Có lẽ nỗi hờ hững với người, với đời đến từ việc mất kết nối với chính mình. Không còn nhiều tha thiết, kể cả với cái đẹp, nên cũng không biết mình cho được gì và muốn được gì từ người. Những lúc như thế tôi luôn chọn một chuyến đi. Đi để thả mình về hoang dã, dùng bản tâm suy nghĩ và phản tỉnh. </p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đầu tháng Năm, Sài Gòn đã vào hè từ lâu. Cơn nóng vẫn đang đà lên đỉnh điểm, oi bức nhưng chưa đủ để có nổi một trận mưa. Cứ vô thức tưởng tượng mình được đắm mình trong nước, ngụp lặn đầm sâu, hay tắm đẫm mưa lớn. Tôi nhớ biển, nhưng cũng lưu luyến những bóng râm an lành của rừng.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Như thể một tín hiệu của vũ trụ, bắt gặp đoạn quảng cáo chuyến trekking đến Mũi Đôi - điểm cực Đông của Tổ quốc. Một cung đường gom rừng tích biển. Quyết định được đưa ra chóng vánh trong một sớm mai tỉnh giấc như thế. Gác lại cuộc sống thị thành, những mối quan hệ gây tê, chốt ngày, thu gom hành lý.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/64038fc1968d12582916d2947e655ca25bb001f3956920f83f5546178a7a601d.webp"alt="DF-00249_rv4.webp"style="max-width: 100%;"></div>