
Phượng Tía
Cộng tác viên
Phượng Tía
Cộng tác viên
NỮ ĐẾ- CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 5- Thái Tông Trần Cảnh: Muôn vị nhân gian
Đăng lúc:
1750592880000
Trong:
Lịch sử
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể nói muôn vị nhân gian, ngọt ngào, mặn chát, đắng ngắt, cay nồng, thơm bùi, ân oán tình thù, tình yêu và gia tộc, chiến tranh và hoà bình, danh lợi phù hoa và thong dong tự tại, cuộc đời của Thái Tông Trần Cảnh đều nếm trải. Trần Thái Tông được ca ngợi là ông vua thiền sư xuất sắc của Đại Việt đã có công kiến tạo nên thế hệ kiệt xuất tiếp theo của dòng máu Đông A anh hùng.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/d3b62ffe47f3d53a367787a618e0855a4c8113b9f9b4e773478240b734aa2113.jpg"alt="5. Thai Tong Tran Canh muon vi nhan gian 5718.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>(Nguồn ảnh: Comet Withhouse)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>NGỌT… </b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong số những đứa trẻ Hoàng tộc họ Lý và Trần gia lúc bấy
giờ, có lẽ Trần Cảnh là đứa trẻ may mắn nhất. Sinh ra trong gia tộc hào trưởng,
không phải lớn lên trong thời buổi loạn lạc nhất như người anh cả Trần Liễu,
lúc Trần Cảnh chào đời (tháng 7 năm 1218 âm lịch), họ Trần đã có vị thế vững
chắc trong triều đình của vua Lý Huệ Tông. Khi người chú Trần Tự Khánh qua đời
(năm 1223), cha của Cảnh là Trần Thừa trở thành người đứng đầu gia tộc, Trần
Thừa cùng với Trần Thủ Độ nắm mọi quyền bính trong triều.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái nhỏ là Chiêu Thánh công chúa để xuất gia (năm 1224) đánh dấu bước ngoặt tuổi thơ của cậu bé 7 tuổi. Thay vì như toan tính của họ Trần đã sắp đặt để vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con rể trưởng Phụng Càn Vương Trần Liễu, lúc này 15 tuổi, là phò mã của trưởng công chúa Thuận Thiên, thì vua Huệ Tông lại đảo lộn Càn Khôn và nhường ngôi cho con gái út. Chiêu Thánh lên ngôi tức Nữ đế Lý Chiêu Hoàng, họ Trần nhanh chóng thay đổi kế sách bằng cách đưa một loạt nam nhi con cháu họ Trần vào cung để hầu hạ Nữ đế. Trong số đó, Trần Cảnh được Trần Thủ Độ tiến cử làm Chi hậu chính chi ứng cục hầu hạ kề cận Chiêu Hoàng. Trần Cảnh cùng tuổi với nữ đế, là anh em họ gần (Trần Cảnh là cháu gọi thái hậu Trần Thị Dung mẹ của Chiêu Hoàng là cô ruột) lại có bản tính hiền lành nên được Chiêu Hoàng quý mến, cùng chơi. Họ Trần đã lợi dụng điều này để dàn xếp hôn nhân giữa 2 đứa trẻ 7 tuổi Chiêu Hoàng và Trần Cảnh. Tới cuối năm 1225, họ Trần hoàn tất bước đi cuối cùng: Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng, Trần Cảnh trở thành vị vua đầu tiên khai mở triều Trần, tự xưng là Thiện Hoàng, sau đổi thành Văn Hoàng tức Trần Thái Tông. Trần Thái Tông lên ngôi tuổi còn thơ ấu (8 tuổi), sau khi Trần Thủ Độ bức tử nhạc phụ vua là Thượng hoàng Lý Huệ Tông, cha vua là Trần Thừa được tôn làm Thượng hoàng, nhiếp chính cho con trai, gia đình Trần Thừa đường đường chính chính trở thành chủ nhân mới của Hoàng cung.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuổi thơ của Trần Cảnh có thể nói là yên bình, may mắn kề
cận Nữ đế, một bước lên mây trở thành tân Hoàng đế. Ngồi lên ngai vàng từ tuổi
ấu thơ song Trần Thái Tông được cha nhiếp chính, có chú nhất mực trung thành,
từng bước ổn định triều chính, có được lòng dân, xây nền vững chắc cho cơ
nghiệp họ Trần. Tuy rằng Trần Cảnh kết hôn rất sớm, khi mới chỉ là đứa trẻ 7
tuổi, song ông và Chiêu Thánh hoàng hậu nhỏ là thanh mai trúc mã, lớn lên là
phu thê hoà hảo. Có thể nói từ tuổi còn rất trẻ, Trần Thái Tông đã có mọi thứ
trong tay, có ngai vàng được danh chính ngôn thuận từ vợ nhường ngôi, có cơ
nghiệp vững vàng nhờ công sức dẹp loạn bình thiên hạ của Trần gia, có tình yêu
ngọt ngào và cuộc hôn nhân hạnh phúc với Chiêu Thánh hoàng hậu. Thế nhưng những
tháng ngày bình yên lại chẳng kéo dài mãi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>MẶN…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mặn là vị của nước mắt. Biến cố đau thương đầu tiên đến với
Trần Cảnh là sự ra đi của người mẹ, Thái thượng hoàng hậu Lê Thị Thái mất năm
1230. Vậy là lúc 12 tuổi, Trần Cảnh cũng trải qua nỗi đau mất người thân như
người vợ Chiêu Thánh của mình (Chiêu Thánh mất cha khi 8 tuổi). Năm 15 tuổi,
Trần Cảnh và Chiêu Thánh lại chịu nỗi đau mất đi đứa con đầu lòng Hoàng thái tử
Trần Trịnh (năm 1233). Ngay sau đó Thái thượng hoàng Trần Thừa cũng qua đời
(tháng 2 năm 1234). Chỉ trong vòng 5 năm, Trần Cảnh liên tiếp mất đi những
người thân yêu nhất. Những biến cố đó hẳn đã để lại khoảng trống mênh mông
trong tâm hồn vị quân vương trẻ tuổi. Sau ngày Thượng hoàng mất, Trần Thái Tông
có ý cất nhắc, dựa vào người anh trai Trần Liễu, phong cho Trần Liễu là Hiển
Hoàng phụ chính bên cạnh người chú họ là Thái sư Trần Thủ Độ. Thế nhưng Trần
Liễu và Trần Thủ Độ có vẻ không hoà hợp mà trở thành 2 thế lực đối đầu. Năm
1236 xảy ra sự biến cung Lệ Thiên, Trần Liễu bị kết án cưỡng gian cung nhân cũ
Lý triều và bị giáng xuống làm Hoài vương, dần mất quyền lực trên chính trường.
Từ đó, Thái sư Trần Thủ Độ trở thành người trụ cột quyền uy nhất trong triều.
Với vị thế của mình, cùng với vợ là Linh Từ quốc mẫu, Trần thái sư cũng thẳng
tay can thiệp vào chuyện hậu cung.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>ĐẮNG…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua đã lâu
không có con, Trần Thủ Độ lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên
công chúa, vợ của Trần Liễu đồng thời là chị gái của Chiêu Thánh đang mang thai
3 tháng làm hoàng hậu để lấy đứa trẻ mà nhờ cậy về sau. Trần Liễu ôm hận nỗi
nhục bị cướp vợ cướp con, họp quân nổi loạn ở sông Cái. Trước tình cảnh éo le
này, với bản tính hiền lành và sự tôn trọng người chú, Trần Thái Tông vô cùng
khó xử. <i>"Trẫm còn thơ ấu vội mất hai thân, bơ vơ đứng trên sĩ dân không
chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế vương đời trước, thạnh suy không
thường, cho nên Trẫm đến núi này chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác"</i>,
lời bày tỏ của Trần Cảnh khi bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử xin tu theo
thiền sư Đạo Viên đã cho thấy sự bất lực tột cùng của đấng quân vương. Trước sự
sắp đặt thế cục bất nhân bất nghĩa mà ông chú đưa ra cho mình, nhà vua những
mong bỏ lại tất cả, rời xa sự đời. Thế nhưng, nhà vua có chạy đường trời cũng
không thoát khỏi bàn tay ông chú Trần Thủ Độ. Trước tuyên bố “vua ở đâu kinh sư
ở đó”, để tránh phá núi Yên Tử cùng lời phân tích của sư Đạo Viên <i>"Trong
núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm</i>”, vua Trần Thái Tông buộc phải
xuống núi trở lại kinh sư và làm theo sắp đặt của ông chú. Nhà vua phải phế lập
Hoàng hậu, Thuận Thiên trở thành Hoàng hậu của em chồng đồng thời là em rể,
Trần Liễu phải an phận làm An Sinh vương mất hết quân đội, còn hoàng hậu bị
giáng làm Chiêu Thánh công chúa, giam lỏng trong hậu cung. Không ai rõ Trần Thủ
Độ đã thuyết phục vua như thế nào, đã mang những ai những gì ra làm vật trao
đổi với nhà vua, nhưng một quân vương ôn nhu, thiện lương như Trần Cảnh buộc
phải chấp nhận chịu lời gièm pha của thiên hạ, chê trách của hậu nhân “phong
hoá hủ bại”, “cướp vợ giành con của anh”. Rất có thể đó là lựa chọn duy nhất
của vua để giữ mạng cho người anh Trần Liễu, bảo vệ tính mạng của người vợ
Chiêu Thánh mà không làm Đại Việt lâm vào cảnh chiến loạn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử có chép từ sau biến cố đó, vua Trần Thái Tông rất chuyên
tâm tu tập theo Thiền tông Phật giáo. Có lẽ nghiên cứu, ứng dụng triết lý từ
kinh Phật, là cách giúp cho vua lý giải sự đời, ngậm đắng nuốt cay, lấy lại tâm
quân bình để trông coi chính sự, làm tốt vai trò quân chủ mà người vợ trao lại,
giữ gìn ngai vàng mà mấy thế hệ ông cha đã đổ máu hy sinh để mang về cho gia
tộc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>CAY…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cay vốn không phải là một vị cơ bản thực phẩm mang đến, mà
là cảm giác nóng của cơ thể khi bị kích thích. Vị cay là chất xúc tác khiến cho
món ăn thêm hấp dẫn, khiến người thưởng thức thêm phấn khích, ngất ngây, nhưng
cũng có thể làm người đó bị bỏng rát, đau đớn khi sử dụng quá mức. Dưới triều
đại của Trần Thái Tông, nhiều sử gia nhìn nhận thái sư Trần Thủ Độ chính là
quyền thần, nhưng ông ấy là quyền thần được vua trọng dụng và hết mực tin
tưởng. Trần Thủ Độ “quyền át vua” song ông dùng quyền hành đó với cái tâm vì cơ
nghiệp họ Trần và một mực trung thành với Thái Tông. Sau hai sự biến năm Bính
Thân (1236) phế Hiển hoàng rồi năm Đinh Đậu (1237) phế lập Hoàng hậu, Trần Thái
Tông đã chấp nhận số phận dựa vào ông chú. Theo thời gian, Trần Thái Tông khẳng
định được tài năng đức độ, sự anh minh, sáng suốt của mình và dần dần tự chấp
chính. Thái sư Trần Thủ Độ khi lớn tuổi cũng lui về sau để nhà vua và thế hệ
con cháu họ Trần làm chủ, tiếp tục gánh vác cơ đồ. Thời gian trôi qua, chuyện
cũ cũng lùi dần vào dĩ vãng trong miệng lưỡi thế gian. 33 năm ngồi trên ngai
vàng, Trần Thái Tông cùng với Hoàng tộc họ Trần và triều đình đã mang lại thái
bình thịnh trị cho Đại Việt sau thời kỳ loạn ly, suy sụp trầm trọng cuối thời
nhà Lý. Bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi nhận về Trần Thái Tông: “Vua khoan nhân
đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng
cương, chế độ Nhà Trần thực to lớn vậy.” Vua vừa biết kế thừa phát huy những
tinh hoa trong chế độ cai trị thời nhà Lý để lại, vừa suy tư cải tổ những điều
bất cập, không còn phù hợp, không có lợi cho dân cho nước. Vua tiếp tục tôn
sùng, học tập ứng dụng theo đạo Phật, vừa đổi mới, phát huy thế mạnh của Nho
giáo, Đạo giáo vào giáo dục và trị quốc. Tinh thần “tam giáo đồng nguyên” là
biểu hiện đặc sắc của nền văn hoá Đại Việt dưới thời Trần, giúp tạo nên những
con người thời đại Đông A hào sảng, phóng khoáng, tài năng và anh hùng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Xuất thân từ con nhà võ, vua Trần Thái Tông rất chú trọng
xây dựng quân đội Đại Việt vững vàng. Không chỉ cử tướng tài, vua còn tự mình
thân chinh dẹp Bắc bình Chiêm (những năm 1240, 1241, 1252). Năm 1257 và 1258,
dưới sự lãnh đạo của vua Trần Thái Tông cùng tài thao lược của Thái sư và các
tướng giỏi, quyết tâm của toàn thể quân dân và kế sách vườn không nhà trống, vó
ngựa chinh phạt thế giới của quân Mông Cổ đã buộc phải dừng lại tại kinh thành
Thăng Long và rút quân về mà không hề cướp phá. Trải qua những mất mát, tổn
thất nặng nề mà không hề nản chí, quân dân nhà Trần đã lật ngược thế trận, đánh
cho quân giặc buộc phải sớm kết thúc chiến tranh, tướng giặc là Triệt Triệt Đô
bị trách phạt phải uống thuốc độc tự vẫn. Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông
lần thứ nhất toàn thắng, Trần Thái Tông dẫn đoàn quân Sát Thát ca khúc khải
hoàn ngay trước thềm Tết Nguyên đán năm 1258.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>BÙI…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ đã mang đến nhiều bài
học và kinh nghiệm trận mạc cho quan quân nhà Trần cũng như ảnh hưởng lớn đến
tư tưởng và những quyết định tiếp theo của vua Trần Thái Tông. Với phương châm
bảo toàn sức dân, phải tham chiến là hạ sách, vua giữ chủ trương hoà hiếu với
cả Nam Tống và quân Mông Cổ, hoà hoả bang giao nhưng cứng rắn không nhượng bộ
trước những yêu sách nhũng nhiễu của quân Mông và nhà Nguyên về sau. Đồng thời
vua dưỡng sức dân và nhanh chóng đào tạo thế hệ kế thừa đưa các quan văn, võ
tướng trẻ và tài năng gánh vác việc nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày mùng một Tết năm 1258, Trần Thái Tông tổ chức ngày hội
khao quân, định công, phạt tội cho quan tướng tại Thăng Long. Cũng trong ngày
này, vua ban cho công thần Lê Tần tên Lê Phụ Trần, lãnh chức Nhập nội phán thủ,
tước Bảo Văn hầu và gả vợ cũ vua là Chiêu Thánh công chúa cho Lê Tần. Quyết
định này một lần nữa dấy trên những lời chê trách trong dân gian “Trách người
quân tử bạc tình, Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”. Thế nhưng những gì diễn ra
sau đó đã cho thấy đây là quyết định mang lại cái kết có hậu cho nhiều người.
Sử chép lại Chiêu Thánh công chúa sinh được hai người con, con trai là Thượng
vị hầu Lê Tông, sau này được ban quốc tính, chính là danh tướng Bảo Nghĩa vương
Trần Bình Trọng, con gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê sau được gả cho Trạng
nguyên Trần Cố. Người viết trộm nghĩ, để con cháu họ Lê được mang quốc tính họ
Trần và phong tước hầu, vương, công chúa thì rất có thể Trần Thái Tông (lúc này
là Thượng hoàng) đã nhận hai người làm nghĩa tử, nghĩa nữ. Cùng năm, ngày 24
tháng 2 âm lịch, Trần Thái Tông truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Hoảng tức
vua Trần Thánh Tông và lui về làm Thái thượng hoàng. Sau khi nhường ngôi,
Thượng hoàng thường ở phủ Thiên Trường (Nam Định) hoặc am Thái Vi thuộc hành
cung Vũ Lâm (Ninh Bình), khi có việc mới trở về kinh sư. Ở tuổi 40 đương sung
sức, vua Trần Thái Tông chọn rút về vai trò Thái thượng hoàng, để đích tử Trần
Hoảng lúc này 18 tuổi nối ngôi, tức vua Trần Thánh Tông. Từ đó Ngài vừa dõi
theo, chỉ bảo cho tân đế, vừa tự do thực hiện chí khí ngao du và tu học thiền
tập. Trần Thái Tông là vị Thượng hoàng hiếm có trong lịch sử mà khi còn tại vị
Hoàng tộc có cả Thái thượng hoàng, Hoàng đế (Trần Thánh Tông), Hoàng thái tử
(Trần Khâm tức Trần Nhân Tông sinh năm 1258) và Hoàng thái tôn (Trần Thuyên tức
Trần Anh Tông sinh năm 1276). <b></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vào ngày 1 tháng 4 âm lịch năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái
Tông qua đời tại điện Vạn Thọ (Thăng Long) hưởng thọ 60 tuổi. Một năm sau đó,
tháng 3 âm lịch năm 1278 Chiêu Thánh công chúa Lý Thiên Hinh cũng qua đời, thọ
61 tuổi. Câu chuyện sóng gió hôn nhân của bốn người anh chị em một nhà khép lại
từ đây. <b></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể nói muôn vị nhân gian, ngọt ngào, mặn chát, đắng
ngắt, cay nồng, thơm bùi, ân oán tình thù, tình yêu và gia tộc, chiến tranh và
hoà bình, danh lợi phù hoa và thong dong tự tại, cuộc đời của Thái Tông Trần
Cảnh đều nếm trải. Đón nhận những may mắn, thuận lợi và phát huy lợi thế đó;
chấp nhận nghịch cảnh, những điều bất như ý và nhẫn nhịn đi qua vì mục đích lớn
hơn; tôn trọng, lắng nghe những bậc cha chú đi trước và yêu thương tin tưởng,
trao quyền cho thế hệ tiếp theo; ở ngôi chí tôn mà vừa nghiêm túc chuyên cần
việc trị quốc, vừa chuyên tâm không trễ nải ước mong học Đạo, Trần Thái Tông
được ca ngợi là ông vua thiền sư xuất sắc của Đại Việt đã có công kiến tạo nên
thế hệ kiệt xuất tiếp theo của dòng máu Đông A anh hùng.</p></div>