MINH TÔNG TRẦN MẠNH: GIỮ TRUYỀN THỐNG HAY THÁO GÔNG XIỀNG?

Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích

  Là vị vua Trần triều đầu tiên được chào đời, trưởng thành và trị vì đất nước trong thời bình sau 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân Đại Việt, về cơ bản Trần Minh Tông duy trì chính sách cai trị đối nội đối ngoại kế thừa theo sách lược các đời tiên vương để lại. Vì vậy mà nhiều sử gia đời sau cho rằng vua là người giữ truyền thống và “đặc biệt bảo thủ trong việc chống cự bất cứ một thay đổi nào đối với những gì ông đã thừa hưởng từ tổ tiên.” (Sử gia Hoa Kỳ K. W. Taylor trong sách A History of the Vietnamese, 2013). Song khi nhìn lại cuộc đời của Trần Minh Tông, người viết mạo muội cho rằng suốt cuộc đời ở ngôi đế vương Minh Tông Trần Mạnh luôn đau đáu một nỗi niềm “Nên giữ truyền thống hay tháo gông xiềng, thay đổi những quy định tổ tiên để lại?”     

20. Tran Minh Tong.jpg

Trần Minh Tông Trần Mạnh là hoàng đế thứ 5 của triều đại nhà Trần nước ta. Cùng với vua cha Trần Anh Tông, thời cai trị của hai ông được ca ngợi là “Anh Minh thịnh thế” - thời kỳ hưng thịnh của vương triều Đông A. Đánh giá về Trần Minh Tông, sử thần Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau: “Vua đem văn minh sửa sang đạo trị nước, làm rạng rỡ công nghiệp của người xưa, giữ lòng trung hậu, lo nghĩ sâu xa, trong yên ngoài phục, kỷ cương đủ bày.” " Vua vốn nhân hậu với họ hàng, nhất là đối với bậc bề trên mà hiển quý lại càng tôn kính.” Còn sử thần Phan Phu Tiên thì bình luận: “Minh Tông có tư chất nhân hậu, nối nghiệp thái bình, không thay đổi phép tắc của ông cha đã định.” Là vị vua Trần triều đầu tiên được chào đời, trưởng thành và trị vì đất nước trong thời bình sau 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân Đại Việt, về cơ bản Trần Minh Tông duy trì chính sách cai trị đối nội đối ngoại kế thừa theo sách lược các đời tiên vương để lại. Vì vậy mà nhiều sử gia đời sau cho rằng vua là người giữ truyền thống và “đặc biệt bảo thủ trong việc chống cự bất cứ một thay đổi nào đối với những gì ông đã thừa hưởng từ tổ tiên.” (Sử gia Hoa Kỳ K. W. Taylor trong sách A History of the Vietnamese, 2013). Song khi nhìn lại cuộc đời của Trần Minh Tông, người viết mạo muội cho rằng suốt cuộc đời ở ngôi đế vương Minh Tông Trần Mạnh luôn đau đáu một nỗi niềm “Nên giữ truyền thống hay tháo gông xiềng, thay đổi những quy định tổ tiên để lại?” Mời bạn cùng phân tích nhé.

1.        Xuất thân: Hoàng đế Trần triều đầu tiên không phải là hoàng đích tử

Vua Trần Minh Tông sinh ngày 4 tháng 10 âm lịch năm 1300, có tên huý là Trần Mạnh, con thứ tư của Trần Anh Tông, được vua cha lập làm thái tử năm 1305. Mẹ ông là Huy Tư Hoàng phi, thứ phi theo hầu vua Anh Tông, bà chính là Chiêu Hiến quận chúa, con gái của Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng (vốn mang họ Lê được ban quốc tính họ Trần) và được xem là cháu nội duy nhất của Nữ đế Lý Chiêu Hoàng. Vì thế, Trần Mạnh mang trong mình dòng máu của cả hai hoàng tộc Trần, Lý nhưng không phải là hoàng đích tử (con trai do hoàng hậu sinh ra).

Do các hoàng tử của vua Anh Tông sinh ra trước đó đều khó nuôi nên khi Trần Mạnh chào đời, Anh Tông đã nhờ Thụy Bảo Công chúa (mẹ kế của Huy Tư Hoàng phi, con gái vua Trần Thái Tông) nuôi hộ. Công chúa Thụy Bảo cho rằng mình mang vận hạn nên đã trao Trần Mạnh cho anh trai là Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật nuôi dưỡng. Theo sử cũ, Trần Nhật Duật đã chăm nuôi Hoàng tử Mạnh rất chu đáo, ông còn đặt cho hoàng tử tên hiệu là Thánh Sinh để giống với con trai mình là Thánh An và con gái là Thánh Nô. Sau này, khi vua Minh Tông lên ngôi, ông đã phong Trần Nhật Duật làm Tá thánh Thái sư đứng đầu triều đình (1324) rồi gia phong Đại vương (1329).

Bởi là hoàng tử duy nhất sống đến khi trưởng thành nên tháng 1 âm lịch năm 1305, Trần Mạnh được vua cha tấn phong làm Đông cung Thái tử, tới tháng 1 năm 1309 được sách phong làm Hoàng thái tử và tới ngày 18 tháng 3 âm lịch năm 1314 được vua cha nhường ngôi. Thái tử Trần Mạnh 14 tuổi lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Ninh Hoàng (tức vua Trần Minh Tông), tôn vua cha Anh Tông làm Quang Nghiêu Duệ Vũ Thái thượng hoàng đế và tôn mẹ đích Thuận Thánh Hoàng hậu (chính cung của vua Anh Tông) làm Thuận Thánh Bảo Từ Thái thượng hoàng hậu.

Trong lịch sử nhà Trần, Trần Mạnh là thái tử kế vị đầu tiên không phải do Hoàng hậu của vua cha sinh ra, trong khi các vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông đều là đích trưởng tử của chính thất hoàng hậu. Đồng thời ông cũng là người kế vị đầu tiên là ngoại lệ quy tắc chọn hậu duệ của nội tộc họ Trần nhằm ngăn ngừa nạn ngoại thích khác họ. Bởi lý do bất khả kháng, vua Trần Anh Tông và tôn thất họ Trần không còn lựa chọn nào khác ngoài việc để Trần Mạnh lên ngôi, song với tài năng trị quốc, kế thừa và duy trì thời kỳ “Anh Minh thịnh thế” của mình, vua Trần Minh Tông đã cho thấy ông hoàn toàn xứng đáng là người kế vị ngai vàng.

2.        Chủ trì triều chính: Tôn thất họ Trần và nho sinh khoa cử

Trần Minh Tông lên ngôi trong thời kỳ đất nước hoà bình. Ở giai đoạn đầu triều đại Đông A, các vua nhà Trần hầu hết đều trao rất nhiều quyền lực chính trị, xã hội cho các tôn thất hoàng gia. Tuy nhiên, sang thời Anh Tông và đỉnh điểm là Minh Tông, thế hệ tôn thất-công thần này suy giảm do tuổi già hoặc đã qua đời, thế hệ sau của họ sống trong thời bình đã lâu, không có nhiều hứng thú với việc chính sự. Vì vậy, Hoàng đế Minh Tông đã lựa chọn phong quan ban chức cho các văn sĩ Nho học xuất thân bình dân, có học thức và đỗ đạt khoa cử. Ông cất nhắc hàng loạt văn thần có tài như Đoàn Nhữ Hài, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Bùi Mộc Đạc, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Chu Văn An, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu... vào những chức vụ lớn. Thời kỳ trị vì của Minh Tông được sử gia Ngô Thì Sĩ đánh giá là "lúc nhân tài [Nho học] thịnh nhất hơn triều các vua khác". Bản thân Minh Tông là người mộ đạo Phật, nhưng ông sử dụng các nho sĩ vì năng lực và lòng trung thành của họ. Tuy vậy, Minh Tông không để những người này vượt qua khuôn phép nhà nước: Trương Hán Siêu khi làm Hành khiển từng bị phạt 300 quan tiền vì ỷ được vua tin yêu, vu cáo hình quan Phạm Ngộ, Lê Duy ăn đút lót; Đoàn Nhữ Hài từng bị phạt vì không ngăn Thiếu bảo Trần Khắc Chung đùa giỡn khi sét đánh lăng tẩm tiên đế. Ông cũng từng bác bỏ đề xuất của một số Nho thần nhằm thay đổi chế độ chính trị-xã hội cho giống với Trung Quốc. Còn đối với người xuất thân tôn thất nhưng không có tài như Bảo Vũ vương, nhà vua rất yêu mến song không cho làm chức lớn. Điều này cho thấy trí tuệ sáng suốt, tài năng dùng nhân tài đúng người đúng việc, giữ nghiêm luật pháp, thưởng phạt công minh của nhà vua.

Vua Trần Minh Tông cũng chú trọng việc thúc đẩy nông nghiệp phát triển, thực hiện những cải cách trong chính sách trị quốc, tích cực sửa chữa đê điều và khéo léo ngăn chặn người quyền thế chiếm ruộng của dân. Năm 1323, Trần Minh Tông quy định quân đội phải tuyển người béo trắng, từ đây, binh lính Đại Việt không còn tục xăm hình rồng ở đùi và lưng nữa.

Dưới thời Trần Minh Tông, quan hệ giữa Đại Việt và nhà Nguyên khá ổn định, Minh Tông đã giữ cho quan hệ bang giao được bình thường qua việc cử sứ giả sang chúc mừng mỗi khi có đại lễ, hoặc có thái độ đón tiếp sứ Nguyên một cách đúng mức, không làm mất đi thể diện của Đại Việt. Song ở phía Nam quan hệ với Chiêm Thành diễn ra căng thẳng, hai bên nhiều lần đụng độ binh đao. Về mạn phía Tây, vua cũng nhiều lần thân chinh đánh dẹp quân Ngưu Hống làm loạn ở Đà Giang, quân Ai Lao (Lào) xâm lấn biên giới ở châu Kiềm (Nghệ An). Trong thời kỳ trị vì của mình cả khi ở ngôi vua và làm Thái thượng hoàng, Trần Minh Tông đã giữ yên bờ cõi bảo toàn cương thổ Đại Việt.

3.        Phong Hậu: Hồng nhan tri kỷ hay hôn nhân nội tộc?

Khi tìm hiểu về cuộc đời của vua Trần Minh Tông, người viết đặc biệt ấn tượng với những câu chuyện về tình yêu, hôn nhân, dàn hậu cung và “hành trình hoàng tộc vượt ngàn chông gai” để “tìm ra” chính cung hoàng hậu cho ngài. Sử chép Minh Tông lên ngôi năm 1314 khi 14 tuổi nhưng cho tới  tháng 12 năm Đại Khánh thứ 10 (1323) khi vua 24 tuổi và đã có ít nhất 3 người con trai thì Huy Thánh công chúa (con gái của chú ruột vua, Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn) được vua lấy làm Hoàng hậu, phong Lệ Thánh hoàng hậu. Có thể trong khoảng thời gian 10 năm đó trong nội tộc họ Trần không có ứng viên phù hợp đáp ứng được yêu cầu là Đích trưởng nữ của thân vương để xứng ngôi Hoàng hậu theo truyền thống lập hậu của các thời vua trước. Luận về thân thế hiển hách có lẽ chỉ có Huy Thánh công chúa là phù hợp hơn cả, nhưng bà đã được vua Anh Tông gả cho Uy Túc công Trần Văn Bích làm kế thất trước đó (sau khi Thiên Trân công chúa, chính thất của Uy Túc công qua đời năm 1309). Từ điểm này có thể suy ra Huy Thánh công chúa vốn nhiều tuổi hơn Đương kim thái tử Trần Mạnh lúc bấy giờ.

Khi tìm đọc nhiều thông tin hơn thì người viết đồ rằng có lẽ còn lý do khác. Trong dàn hậu cung của vua Trần Minh Tông có một vị Triều Môn thứ phi Trần thị, là mẹ sinh ra nhị hoàng tử Trần Nguyên Trác, tức là có nữ nhân họ Trần trong hậu cung của Minh Tông từ sớm nhưng lại không được vua lập làm hoàng hậu. Người viết mạo muội đoán rằng rất có thể vốn là vị vua có xuất thân khác với truyền thống của họ Trần, khi ở lứa tuổi thanh xuân, trẻ trung tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần đổi mới, vua Minh Tông đã từng muốn phá bỏ ràng buộc quy tắc chọn hoàng hậu nhưng không đạt được sự đồng thuận với các bậc cha chú thủ cựu trong hoàng tộc. Nếu giả thuyết này là đúng thì hẳn rằng vị hồng nhan tri kỷ mà Minh Tông muốn phong hậu đó chính là Anh Tư Nguyên phi Lê thị (Minh Từ Hoàng thái phi), người sinh ra Hoàng trưởng tử Trần Vượng (1319) và Hoàng tam tử Trần Phủ (1321) tức hai vua Trần Hiến Tông và Trần Nghệ Tông sau này.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư chép lại về xuất thân của Anh Tư Nguyên phi thì bà là người họ Lê, quê ở Giáp Sơn (Hải Dương) là con gái của một viên quan cấp thường. Mẹ của bà là con gái của Nguyễn Thánh Huấn, giáo thụ (thầy dạy) của vua Trần Nhân Tông khi còn là Thái tử. Khi bà nhập cung đã được vua Minh Tông phong làm Anh Tư Phu nhân, sau tấn làm Anh Tư Nguyên phi đứng đầu bậc phi, chỉ dưới mỗi Hoàng hậu. Như vậy trong thời gian 10 năm ngôi vị hoàng hậu còn trống thì Anh Tư Nguyên phi chính là vị phi tần đứng đầu hậu cung và cũng là nữ nhân quan trọng nhất trong lòng Minh Tông Hoàng đế.

Có một điểm rất đặc biệt, Anh Tư Nguyên phi còn là em gái cùng mẹ khác cha với Lệ Thánh hoàng hậu. Lệ Thánh là con của Nguyễn phu nhân với Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn, còn Anh Tư là con của bà với viên quan người họ Lê. Vì lý do nào đó, người viết phỏng đoán là do sự khắt khe của quy tắc hôn nhân nội tộc họ Trần mà Nguyễn phu nhân sau khi sinh Huy Thánh công chúa cho Huệ vũ vương Trần Quốc Chẩn đã phải rời xa con gái và kết hôn với vị quan họ Lê rồi sinh ra Anh Tư Nguyên phi. Phải chăng vì điểm chung cùng mẹ của hai bà mà dưới sức ép của tôn thất họ Trần, vua Minh Tông đã chấp thuận cuộc hôn nhân chính trị với Huy Thánh công chúa (người vừa là em họ vừa là “chị vợ” đồng thời từng là phu nhân của chú họ ngài), vua phong bà làm Lệ Thánh hoàng hậu. Có thể sau 10 năm ấp ủ việc “phá lệ” không thành, cuối cùng vua Minh Tông vẫn phải chọn hoàng hậu theo lệ truyền thống các đời tiên vương để lại.

4.        Lập Trữ quân: Trưởng tử hay Đích tử?

Sử chép “Năm 1328, Minh Tông đã làm vua được 15 năm, tuổi khá cao mà chưa lập được Thái tử. Mặc dù các thứ phi đã sinh được các hoàng tử Trần Vượng, Trần Nguyên Trác, Trần Phủ nhưng Hiến Từ Hoàng hậu vẫn chưa sinh được con trai. Triều đình bấy giờ chia làm hai phái: phe của Trần Quốc Chẩn muốn Minh Tông đợi bằng được đến khi hoàng hậu sinh con trai, rồi mới lập Thái tử. Đây là lệ trước giờ của nhà Trần, vốn không lập con của người khác họ lên ngôi, mà đều lập con của các hoàng hậu, hoàng phi có xuất thân trong hoàng gia, cốt là để tránh họa ngoại thích mà bản thân họ Trần đã dùng khi thay ngôi nhà Lý. Trái lại, phe của Cương Đông Văn Hiến hầu (hậu duệ của Tá thánh Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật) và Thiếu bảo Trần Khắc Chung (thầy dạy vua) ủng hộ lập con của Anh Tư Nguyên phi là Trần Vượng làm thái tử.”  Tới lúc này có lẽ vì việc phong hậu và lập Trữ quân mà mối quan hệ của vua Trần Minh Tông đại diện cho phái cấp tiến với phe hoàng tộc thủ cựu mà đứng đầu là chú ruột đồng thời là cha vợ của vua, Quốc phụ Thượng tể Trần Quốc Chẩn đã trở thành mâu thuẫn gay gắt, bất đồng trầm trọng. Chính điều này là nguyên nhân cốt lõi gây ra vụ án oan của Trần Quốc Chẩn cùng năm đó.

Để hạ bệ phe thủ cựu, “Cương Đông Văn Hiến hầu đã đưa 100 lạng vàng cho gia nô của Trần Quốc Chẩn là Trần Phẫu, rồi xúi giục Phẫu tố giác với Minh Tông rằng Quốc Chẩn có ý mưu phản. Ngay lập tức, nhà vua truyền lệnh bắt giam Quốc Chẩn vào chùa Tư Phúc trong hoàng thành Thăng Long, rồi xin ý kiến Trần Khắc Chung về vấn đề này. Khắc Chung đã thuyết phục Minh Tông rằng "bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". Nghe lời Khắc Chung, Minh Tông truyền bắt Quốc Chẩn phải tuyệt thực. Tháng 3 âm lịch năm 1328, Trần Quốc Chẩn chết, hàng trăm người khác cũng bị bắt vì có liên quan với Quốc Chẩn.” Sang năm sau, ngày 7 tháng 2 âm lịch năm 1329, vua Trần Minh Tông xuống chiếu phong Hoàng trưởng tử Trần Vượng (10 tuổi) làm Thái tử. Đến ngày 15 tháng 3 thì ông nhường ngôi cho Thái tử Vượng. Thái tử lên ngôi Hoàng đế, tức vua Trần Hiến Tông, tự xưng là Triết Hoàng, tôn vua cha làm Thái thượng hoàng. Thượng hoàng lui về phủ Thiên Trường. Bằng sự quyết đoán của mình, vua Trần Minh Tông đã phá lệ cũ, lập Trữ quân, trao ngôi vua cho người con trưởng nhưng không phải là con dòng đích của mình. Theo sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, “Trần Hiến Tông có "tư trời tinh anh, sáng suốt", nhưng vì tuổi còn trẻ nên Thượng hoàng nắm quyền quyết định mọi việc trong nước.” Dưới thời Trần Hiến Tông, Đại Việt thịnh trị. Dù hậu thế có nhiều người cho rằng Hiến Tông chỉ là vua cai trị trên danh nghĩa, ngồi “dưới bóng vua cha” nhưng những năm tháng Thượng hoàng thân chinh dẹp loạn các vùng biên giới, vua Hiến Tông đã thể hiện tài năng trị quốc giữ ổn định hậu phương và cho thấy đây là lựa chọn sáng suốt của Trần Minh Tông.

5.        “Anh Minh thịnh thế” và nỗi phiền muộn của đế vương

Những tưởng việc xử tử Trần Quốc Chẩn là quyết định đúng đắn, “đại nghĩa diệt thân” nhưng một thời gian sau “hai người vợ Trần Phẫu ghen nhau, bèn tố giác việc Phẫu nhận vàng của Văn Hiến hầu lên Minh Tông. Hoàng đế sai bắt giam Phẫu. Ngay ngày hôm đó, ngục quan Lê Duy tiến hành xét xử, khép Phẫu vào tội lăng trì. Bản án chưa kịp thi hành thì gia nô của Thiệu Võ, con trai Trần Quốc Chẩn, đã giết Phẫu làm thịt. Minh Tông tha chết cho Văn Hiến hầu, nhưng xoá tên khỏi hoàng gia và giáng làm thứ dân.” Oan khiên của Huệ Vũ vương được giải song Trần Minh Tông bị ám ảnh tới tận cuối đời vì đã không ngăn chặn cái chết của Trần Quốc Chẩn. Sự việc này đã chấm dứt sự đoàn kết, tin tưởng lẫn nhau trong hoàng tộc nhà Trần – vốn là sức mạnh của các triều vua trước. Sử gia Hoa Kỳ K. W. Taylor viết: "Trần Mạnh từ đây trở thành một vị vua cô độc. Sự khuyên bảo từ các tôn thất cao niên và sự phục vụ trung thành từ các tôn thất trẻ trở nên suy giảm, như chưa từng có đối với một ông vua Trần".

Nỗi ân hận về cái chết oan ức của người chú ruột đã khiến Trần Minh Tông hoang mang tự vấn về chủ trương cấp tiến, phá rào cản truyền thống của chính mình đặc biệt là trong vấn đề kế vị. Những năm tháng cai trị sau này, Thượng hoàng thận trọng hơn, xem xét kỹ lưỡng hơn trước khi ban bố các chính sách cải cách và duy trì lệ cũ trong lựa chọn kế vị.

Năm 1341, nỗi bất hạnh lớn nhất giáng xuống cuộc đời của Trần Minh Tông. Ngày 11 tháng 6 năm Tân Tỵ (1341), vua Trần Hiến Tông mất ở chính tẩm, hưởng dương 23 tuổi, bấy giờ vua chưa có đích tử chỉ mới sinh một công chúa. Bên cạnh nỗi đau “lá vàng đưa tiễn lá xanh”, Trần Minh Tông một lần nữa phải đưa ra quyết định chọn người kế vị. Lần này với nỗi day dứt về sai lầm giết oan cha vợ, Thượng hoàng đã chọn con dòng đích. “Lúc này, bà Hiến Từ đã sinh cho Thượng hoàng 2 hoàng tử Trần Nguyên Dục và Trần Hạo. Nguyên Dục là trưởng nam, nhưng bị Thượng hoàng xem là "người ngông cuồng" và không chọn làm vua. Ngày 21 tháng 8 âm lịch năm 1341, Thượng hoàng lập Trần Hạo lên ngôi, tức Hoàng đế Trần Dụ Tông, lấy niên hiệu là Thiệu Phong. Dụ Tông mới 6 tuổi nên Thượng hoàng vẫn cai quản mọi việc triều chính.”

Từ giai đoạn này về sau sức mạnh của triều Trần dần suy yếu. Từ năm 1345 tới 1353, chiến tranh Đại Việt với Chiêm Thành và Ai Lao nhiều lần xảy ra, quân Đại Việt đã phải đối mặt với những thiệt hại nặng nề. Trong nước có vài đợt hạn hán mất mùa, lại thêm tình trạng một số cuộc khởi nghĩa nông dân bùng phát khiến triều đình phải nhiều lần đem quân trấn áp. Ở lần thứ hai, Minh Tông đã chọn đích tử kế vị theo truyền thống nhưng đáng tiếc là Trần Dụ Tông lớn lên lại không trở thành minh quân như cha và anh mình. Dụ Tông ưa dùng ngự y Trâu Canh (vốn gốc Hoa) đã từng cứu sống vua khỏi chết đuối năm 4 tuổi, sau lại chữa bệnh “liệt dương” cho vua bằng phương thuốc kỳ quái giết trẻ loạn luân. Khi Thượng hoàng đã lớn tuổi ít can dự triều chính, vua Dụ Tông lại tin dùng những kẻ nịnh thần, mê lối sống hưởng lạc mà xa lánh những lời can gián của trung thần. Chứng kiến thế sự đổi thay theo chiều hướng xấu, thất vọng trước sự yếu kém và u mê của con trai, nỗi phiền muộn càng ngày càng phủ bóng u ám trong những năm tháng cuối đời của Thượng hoàng Minh Tông. Năm 1356, Thượng hoàng Trần Minh Tông, Hoàng đế Trần Dụ Tông cùng đi tuần Nghệ An. Tháng 8 âm lịch năm này, Thượng hoàng lại đến chơi đền Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn ở núi Kiệt Đặc, Chí Linh (Hải Dương); lúc trở về, ông bị một con ong vàng đốt ở má bên trái, do đó mà sinh bệnh. Vương hầu, quan lại định lập đàn chay cầu đảo,ông biết được bèn ngăn lại. Hiến Từ Thái hậu muốn phóng sinh gia súc để cầu mong Thượng hoàng hết bệnh, ông cũng từ chối: "Thân ta không thể lấy con lợn, con dê mà đổi được". Vua Dụ Tông triệu các ngự y Trâu Canh, Vương Định, Phạm Thế Thường bắt mạch cho Thượng hoàng, Trâu Canh kết luận đây là "mạch phiền muộn". Thượng hoàng vốn không ưa bọn Trâu Canh liền ứng khẩu một bài thơ “Chẩn mạch” chấm biếm ( “Xem mạch đừng nên nói muộn phiền/Trâu công hãy liệu thuốc cho yên./Bảo rằng phiền muộn không sao dứt,/Chỉ sợ càng tăng phiền muộn lên.”- Dịch thơ Cao Huy Giu). Thượng hoàng từ chối tất cả nhưng phương pháp điều trị mà ông cho là hão huyền, vô ích. Tới ngày 19 tháng 2 âm lịch năm 1357, Thượng hoàng Trần Minh Tông qua đời tại cung Bảo Nguyên, hưởng thọ 58 tuổi, tới tháng 11 thì an táng tại Mục Lăng (Yên Sinh, Quảng Ninh). Sau khi Trần Minh Tông mất, vua Trần Dụ Tông tự mình chấp chính. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, “vị hoàng đế này ham mê hưởng lạc, rượu chè, đánh bạc, lại xây dựng nhiều cung điện xa hoa, tin dùng gian thần. Ở phía Nam, Chiêm Thành đã mạnh lên, liên tục đánh phá Đại Việt; triều Trần đến hồi suy vong.”

Vua Trần Minh Tông là một Phật tử mộ đạo, chuyên tâm nghiên cứu, học hỏi Thiền tông. Theo Thánh đăng ngữ lục, Minh Tông đã khuyến khích các thiền sư Pháp Loa, Huyền Quang, Pháp Cổ, Kim Sơn và Cảnh Huy giảng kinh sách của Phật và các Tổ Thiền tông ở hai kinh đô: Thăng Long và Thiên Trường. Minh Tông còn cúng tiến nhiều tiền, vàng và nhân công cho việc xây dựng Bảo tháp Viên Thông (nơi chứa nhục thân của Pháp Loa sau khi ông viên tịch) và chùa Đại Tư Quốc – đều ở Hải Dương. Ông còn là một thi nhân để lại nhiều tác phẩm đặc sắc. Trong sách Thơ văn Lý Trần (tập 2, quyển thượng), các tác giả Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Đỗ Văn Hỷ và Trần Tú Châu nhận xét thơ của Minh Tông "đã phản ánh trung thực tư tưởng, tình cảm và tính cách của ông. Qua thơ, Minh Tông tỏ ra là một vị vua có tinh thần chủ động, năng nổ với việc nước, ưu ái đối với các bề tôi giỏi, thương yêu dân chúng trong bờ cõi và cả dân chúng các nước láng giềng. Thơ Minh Tông hùng hồn, phóng khoáng, nhưng cũng bình dị, tự nhiên, tinh tế. Nhà thơ không ngần ngại bộc bạch những tâm sự sâu kín, những lỗi lầm thời trẻ mà sau này ông mới nhận thức được".

Cuộc đời của vua Trần Minh Tông có thể xem là một cuộc đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng: giữ gìn truyền thống thủ cựu và đổi mới cách tân trong thời bình. Cũng có những lúc ông mắc phải sai lầm, mãi ôm ân hận nhưng ông là hoàng đế anh minh lỗi lạc đã nỗ lực hết sức mình để duy trì cơ nghiệp tổ tiên và đem lại hưng thịnh cho Đại Việt. Triều đại của Minh Tông là thời kỳ thái bình thịnh trị và thời gian ông tại vị cũng là những năm tháng huy hoàng rực rỡ cuối cùng của triều đại Đông A.

(Nguồn tư liệu & Ảnh: Đại Việt sử ký toàn thư, Wikipedia, Internet)

Đọc thêm:

Vua Trần Minh Tông Trần triều Đông A Anh Minh thịnh thế
Còn lại: 5