Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên
Phượng Tía Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vào những năm đầu thế kỷ XXI có hàng triệu khán giả vô cùng yêu thích gameshow ẩm thực nổi tiếng “Vua đầu bếp” (MasterChef), chương trình đã được sản xuất ở 35 quốc gia và phát sóng tại ít nhất 200 quốc gia, vùng lãnh thổ. Thế mà ở Việt Nam ta đã có một Vua đầu bếp “xịn xò” từ tận ba bốn nghìn năm trước. Đó chính là Vua Hùng Vương thứ 7, Hùng Chiêu Vương hay còn gọi là Lang Liêu, người đã được truyền ngôi vua nhờ làm ra món bánh Tết cổ truyền: bánh Chưng, bánh Giầy. Hôm nay, chúng ta cùng bàn luận về vị “Vua đầu bếp” Văn Lang này nhé.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/d51ebf60164e750651dd1626880f310951691d8fce85b639dbfa1ddd2efb8323.jpg"alt="Lang Lieu.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>(Nguồn ảnh: Đại Việt kỳ nhân)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Lang Liêu, Hoàng tử thứ&nbsp; 18 sớm mồ côi mẹ</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, mục "Truyện bánh chưng", vào thời nước Văn Lang đời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân, đất nước thái bình, Vua tự thấy tuổi mình đã cao, sức khoẻ ngày một suy yếu nên có ý định chọn người nối ngôi. Hùng Vương bèn cho gọi 22 vị quan lang (hoàng tử) lại mà bảo rằng: <i>"Nay cha biết mình sắp gần đất xa trời. Cha muốn truyền ngôi cho một trong số anh em các con. Các con hãy chuẩn bị món ăn quý làm lễ dâng cúng tổ tiên. Ai có món vừa ý ta thì ta sẽ truyền ngôi cho."</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Phải công nhận rằng Hùng Vương thứ 6 là vị vua có cách chọn người nối ngôi độc nhất vô nhị, Ngài không chọn con trưởng kế vị, chẳng chọn người văn hay võ giỏi, cũng không chọn người được quan quân ủng hộ mà là chọn người dâng lên tổ tiên món ăn đặc biệt nhất. Có lẽ khi đất nước đã thái bình, Vua muốn nhắc nhở các con ghi nhớ công lao các bậc tiền nhân, hiếu kính tiên tổ. Và cũng có thể thông qua sự độc đáo và ý nghĩa của món ăn, Vua muốn nhìn ra người con nào có đức có tài, có tấm lòng rộng lớn đủ năng lực gánh vác ngôi vị đứng đầu đất nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nghe vua cha phán truyền, các quan lang thi nhau cho người đi khắp nơi tìm thức ngon vật lạ, lên rừng săn bắn xuống biển quăng chài, nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Duy có quan lang thứ 18 tên là Lang Liêu sớm mồ côi mẹ, trong nhà neo người, chẳng ai giúp đỡ nên khó bề toan tính, ngày đêm lo lắng, ăn ngủ không yên. Chỉ còn 3 ngày nữa là tới kỳ thi mà Lang Liêu vẫn chưa biết nên làm món gì. Đêm hôm đó, chàng nằm gác tay lên trán lo lắng, suy nghĩ rồi ngủ quên lúc nào không biết. Trong khi mơ màng, chàng thấy một vị thần từ trên trời bay xuống giúp đỡ, thần bảo: <i>"Trong trời đất không vật gì quý bằng hạt gạo, vì gạo là để nuôi sống con người và có thể ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Hãy giã nhuyễn gạo nếp đem gói thành bánh hình tròn để tượng trưng cho Trời. Rồi lại lấy lá gói thành bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ở trong có nhân đỗ xanh và thịt tượng trưng cho cỏ cây, muông thú…"</i>. Lang Liêu giật mình tỉnh dậy, vui mừng khôn xiết. Chàng lựa những hạt nếp trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân đỗ xanh và thịt vào giữa, đem luộc chín gọi là bánh Chưng tượng trưng cho Đất. Chàng lại lấy nếp nấu xôi đem giã cho nhuyễn mịn như bột rồi nhào thành hình tròn gọi là bánh Giầy tượng trưng cho Trời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng ta dễ dàng thấy, nếu so với các vị quan lang khác thì Lang Liêu không có bất kỳ lợi thế nào, bản thân chàng lúc đó có thể chẳng hề nghĩ tới việc giành được ngôi vua. Song chàng không vì thế mà tự ti, bỏ cuộc hay than thân, trách phận. Chàng ngày đêm lo lắng bởi chàng thật lòng muốn làm được món ăn quý để bày tỏ lòng thành, dâng lên tiên tổ. Chính tấm lòng hiếu thảo, sự chân thành của chàng đã cảm động trời xanh, để rồi thần xuất hiện trong mơ đem cho chàng lời chỉ dẫn và từ đó chàng sáng tạo ra món bánh Chưng, bánh Giầy thật ngon và đầy ý nghĩa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Vua đầu bếp Văn Lang, Hùng Vương thứ 7 với Bánh Chưng, Bánh Giầy</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đến ngày tế lễ Tiên vương, các hoàng tử đem tới đủ các món ngon vật lạ, không thiếu thứ gì. Người dân các nơi nô nức về Phong Châu dự hội. Đúng lúc mặt trời mọc, Vua Hùng đi kiệu đến làm lễ. Sau khi nếm tất cả các món sơn hào hải vị, nem công, chả phượng, tay gấu, gan tê vua rất ngạc nhiên khi nếm thử món bánh một vuông một tròn mà Lang Liêu dâng lễ, thấy ngon miệng không chán. Vua cho đòi Lang Liêu tới hỏi cách làm ra hai món bánh này. Lang Liêu đem giấc mộng thuật lại. Vua tấm tắc khen hồi lâu, hai thứ bánh này quả là đặc biệt, bày tỏ được lòng hiếu thảo của con cháu tôn kính ông bà tổ tiên như Đất Trời. Trưa hôm ấy Hùng Vương trịnh trọng tuyên bố, hoàng tử thứ 18 là người dâng lễ vật vừa ý vua nhất. Vua bèn truyền ngôi cho Lang Liêu, 21 người con còn lại đều được chia giữ các nơi, trấn thủ những vùng núi non hiểm trở.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Như vậy, món ăn quý nhất lại là món ăn mộc mạc, giản dị mà đong đầy ý nghĩa. Lang Liêu được thần chỉ dẫn nhờ lòng thành cảm động trời xanh, và chàng cũng tự tay mình thực hiện, tìm tòi, sáng tạo để biến lời chỉ dẫn thành món bánh ngon lành. Bánh Chưng xanh vuông vắn như mảnh đất quê hương, ôm trọn cỏ cây muông thú, nuôi dưỡng cho vạn vật, vị mặn mà như lòng biết ơn với tạo hoá. Bánh Giầy tròn đầy như bầu trời rộng lớn, trắng trong, thuần khiết, ngọt ngào như tấm lòng hiếu thảo của cháu con. Bánh được làm từ hạt gạo, hạt đỗ, thịt thà, gia vị sẵn có trong nhà mà bất kỳ ai đều có thể làm được.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lang Liêu lên làm vua tức Hùng Chiêu Vương, mở ra vương triều Hùng Vương thứ 7. Cũng từ đấy thành tục lệ hàng năm, mỗi khi Tết đến xuân về người người nhà nhà đều làm bánh Chưng, bánh Giày để thờ cúng tổ tiên.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Người vợ Thánh mẫu Tây Thiên </i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tương truyền thời đó ở vùng núi Tam Đảo có người con gái tên là Lăng Thị Tiêu xinh đẹp nết na, vừa có tài thơ phú lại có tài binh cơ, võ nghệ xuất chúng. Khi giặc Ân tràn sang cướp phá nước ta, Vua Hùng cho sứ giả truyền loa kêu gọi nhân dân cùng chống giặc. Nàng Tiêu cũng xin gia nhập đội quân cứu nước. Chiến thắng&nbsp; giặc Ân, đất nước thái bình, Hùng Chiêu Vương đem lòng cảm mến đã kết duyên cùng nàng và lập làm chính phi. Sau khi mất, nàng được tôn là Bà chúa Thượng Ngàn của núi rừng Tam Đảo, Đệ Nhất Tây Thiên Thánh mẫu. Các triều đại từ Đinh, Lý, Trần, Lê đều có sắc phong bà là Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Tối Linh Đại Vương&nbsp;Thượng Đẳng Phúc Thần, được nhân dân cả nước tôn vinh, kính trọng và lập đền thờ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đọc thêm:</p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/tien-dung-cong-chua-%E2%80%9Cba-to%E2%80%9D-nghe-buon"><div class="link-title">TIÊN DUNG CÔNG CHÚA: “BÀ TỔ” NGHỀ BUÔN</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Tác giả uy tín
henry nguyen Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trên dải đất dài cong hình chữ S, có những cái tên ngoại quốc mà người Việt không bao giờ quên: Alexandre de Rhodes – người La Tinh hóa tiếng Việt; Louis Pasteur – cha đẻ của ngành vi sinh học hiện đại; và rồi, có một người rất đặc biệt – Alexandre Émile Jean Yersin, người mà dân Khánh Hòa thân mật gọi là “Ông Năm”.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông không đến Việt Nam để cai trị, cũng không để truyền đạo. Ông đến với hành trang của một nhà bác học yêu con người, và ra đi với danh phận của một người Việt không quốc tịch.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/23fbfc3596638ab228a6377c5aff04fdca33c907c9ba405c2f854e00b94c9335.jpg"alt="504661789_1612575926088130_2813864334014027752_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người đời gọi ông là “Ông Năm”. Người Việt gọi ông là “người Tây có trái tim Việt”. Còn tôi – một người sống ở thế kỷ 21 – xin gọi ông bằng tất cả lòng kính trọng: người đi tìm ánh sáng giữa những khu rừng im lặng.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Từ Lavaux đến Đông Dương – người không chọn vinh quang</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Alexandre Émile Jean Yersin sinh năm 1863 tại Thụy Sĩ. Là học trò xuất sắc của Louis Pasteur, ông từng phát hiện độc tố bạch hầu, đặt nền móng cho ngành miễn dịch học. Thế nhưng, khi những người khác chọn Paris, vinh danh và giải thưởng, ông chọn Đông Dương – vùng đất xa lạ, chưa có điện, chưa có bản đồ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1890, Yersin đặt chân đến Việt Nam với hành lý là kính hiển vi, sách y học và trái tim không ngừng tìm kiếm.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Ngày 21 tháng 6 năm 1893 – Đà Lạt trong sương mở mắt chào ông</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi còn nhớ, đó là một buổi sáng tháng Sáu, mưa bụi và gió lạnh ở Lang Biang. Không ai nhắc tới ngày này trên sách lịch. Nhưng đối với tôi, ngày 21 tháng 6 là một mốc vàng – ngày ông bước vào cao nguyên và phát hiện ra Lang Biang, nơi sau này trở thành Đà Lạt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đọc lại dòng ghi chú ngắn gọn của ông:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Khí hậu trong lành, đất tốt, nước nhiều – có thể lập trạm dưỡng bệnh.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi không thấy sự kiêu hãnh. Chỉ có một sự tin tưởng sâu lắng rằng con người xứng đáng được chữa lành. Và từ đó, vùng đất hoang sơ này trở thành thành phố mộng mơ cho bao thế hệ.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Không vợ con – Yersin chọn Việt Nam làm nhà, khoa học làm bạn đời</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông sống như một người Việt: mặc áo bà ba, ăn mắm, đi dép râu, sống trong một ngôi nhà gỗ nhỏ ở Suối Dầu. Ông không lấy vợ. Không xây biệt thự. Không mua đất.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Tôi lấy nhân loại làm vợ, khoa học làm con, Việt Nam là nhà.” – người ta truyền lại lời ông như thế.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Dịch hạch, canh ki na, trường y – khoa học phụng sự con người</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1894, dịch hạch tàn phá Hồng Kông. Không ai dám đến. Ông đến. Một mình, với kính hiển vi và lòng can đảm. Tại đó, ông phát hiện vi khuẩn dịch hạch – về sau được đặt tên là Yersinia pestis.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông sáng lập Viện Pasteur Nha Trang, điều chế huyết thanh, mở Trường Y Hà Nội, nghiên cứu nông nghiệp, thiên văn, khí tượng… nhưng chưa từng treo bằng cấp trên tường.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Nếu tôi không vào vùng dịch, thì ai vào?” – một câu hỏi đơn giản, nhưng để đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Người ra đi trong yên lặng, để lại một đất nước ghi nhớ</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông mất năm 1943 tại Nha Trang. Không kèn trống. Không quốc tang. Nhưng hàng nghìn người dân tự lập bàn thờ, để tang ông như cha. Mộ phần ông nằm khiêm nhường bên đồi Suối Dầu, chỉ có tên: YERSIN.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không tượng đài. Nhưng tên ông hiện diện trong:</p></div><div class="block-wrapper" type="list"><ul list-style="unordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Đại học Yersin Đà Lạt </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Bảo tàng Yersin ở Nha Trang </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Các con đường mang tên Yersin tại TP.HCM, Hà Nội, Đà Lạt </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Và trên hết, trong lòng hàng triệu người Việt. </div></li></ul></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Hôm nay – người hậu thế cúi đầu trước người đi trước</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi đứng giữa Đà Lạt hôm nay – nơi người ta đi dạo với latte, selfie và sách ảnh. Tôi ngước nhìn lên Lang Biang, và thấy ông – không phải bằng mắt, mà bằng ký ức đất trời. Ông vẫn đi giữa rừng thông, với sổ tay, ánh mắt hiền và trái tim không ngừng sống cho người khác.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày 21 tháng 6 năm ấy, ông chỉ lặng lẽ ghi vào sổ. Còn hôm nay, tôi xin lặng lẽ ghi vào lòng:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cảm ơn ông, Ông Năm – người đã sống trọn một đời cho Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h2>Kết</h2></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có những người đi qua đời ta như cơn gió. Có những người ở lại như cánh rừng. Và Alexandre Yersin – ông không cần thuộc về lịch sử – Vì ông đã trở thành một phần của đất nước này.</p></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên
Phượng Tía Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nữ nhân hiếm hoi được sử sách ghi nhận có vai trò là “khai quốc công thần” cho một triều đại huy hoàng trong thời đại phong kiến Việt Nam chính là Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung, người từng ở ngôi Thái hậu triều Lý, mẹ của Nữ đế Lý Chiêu Hoàng. Cùng với Thái tổ Trần Thừa và thái sư Trần Thủ Độ, bà đóng vai trò chủ chốt trong cuộc chuyển giao quyền lực giữa hai triều đại thông qua sự kiện Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông Trần Cảnh. Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung cũng là người mở màn cho chuỗi drama và truyền thống kết hôn nội tộc của triều Trần khi hai người vốn là chị em họ con chú con bác lại kết hôn vào năm 1226 dưới thời Trần Thái Tông.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/d8b3966533f6fe945255127879c635fe7c810ccbd9e47f0d5d0a3015985e418c.jpg"alt="4. Tran Thi Dung.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Thị Dung xuất thân là con gái nhà chài lưới ở Hải Ấp, Thái Bình. Sử chép bà là con gái thứ hai của Trần Lý (nghĩa là trên bà còn có một chị gái) và là em gái của Trần Thừa và Trần Tự Khánh. Theo vai vế bà là cô ruột của Thái Tông Trần Cảnh và An Sinh vương Trần Liễu, sau đó trở thành mẹ vợ của cả hai người.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chính sử không đề cập tới nhưng giai thoại dân gian có kể rằng thời thiếu nữ, Trần Thị Dung từng yêu thương một người đàn ông trước khi gặp Lý Huệ Tông, đó chính là Phùng Tá Chu là người bạn thân thiết của Trần Tự Khánh, anh trai bà. Phùng Tá Chu sau này trở thành công thần khai quốc triều Trần và cũng là một trong số hiếm hoi những người không mang họ Trần nhưng được phong tước đại vương, tức Hưng Nhân đại vương. Dù chỉ là thông tin dã sử nhưng xem xét vai trò của Phùng Tá Chu trong công cuộc chuyển giao triều đại Lý- Trần và công lao dốc sức phò tá Trần Thái Tông, có thể thấy mối giao tình giữa Hưng Nhân đại vương với họ Trần rất sâu đậm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc đời của Trần Thị Dung có lẽ sẽ bình lặng như bao nữ thường dân khác nếu như không có ngày gặp gỡ Lý Hạo Sảm. Năm 1209, xảy ra loạn Quách Bốc, Thái tử Sảm cùng mẹ và em gái chạy loạn về vùng Hải Ấp, Thái Bình được hào trưởng Trần Lý và em vợ là Tô Trung Từ phò tá. Tại đây, thái tử Sảm gặp gỡ và cảm mến Trần Thị Dung nên biết ý, cha bà là Trần Lý đã gả bà cho Thái tử. Trong cuộc hôn nhân này, thái tử được nữ nhân mình yêu, lôi kéo thêm được thế lực cho mình, Trần Lý và Tô Trung Từ thì được chính danh phò tá nhà Lý để tập hợp, phát triển lực lượng quân sự với lời hứa hẹn ban chức tước từ thái tử. Chỉ có Trần Thị Dung, nữ nhân sắc nước hương trời ở tuổi 15 đã trở thành quân cờ trong tay họ Trần để bước vào vũ đài chính trị, tranh hùng và đoạt vị.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trở thành vợ Thái tử Sảm là khởi đầu cho chuỗi ngày gian truân phong ba bão táp trong cuộc đời Trần Thị Dung. Họ Trần tham gia vào cuộc nội chiến dẹp loạn Quách Bốc cũng phải chịu không ít thiệt hại, cha bà là Trần Lý thiệt mạng trong cuộc giao tranh, quyền nắm quân đội họ Trần rơi vào tay người cậu Tô Trung Từ, người anh Trần Tự Khánh cũng phải chật vật để lấy lại quyền lực về tay mình. Vốn không đồng ý với việc Thái tử lấy con gái thường dân làm vợ, An Toàn Đàm hoàng hậu nhất quyết không cho Trần Thị Dung theo về cung. Phải tới khi Lý Cao Tông mất, thái tử Sảm nối ngôi vua mới sai người đón Trần Thị Dung nhập cung phong làm Nguyên phi. Năm 1211 chiến loạn tiếp tục xảy ra giữa các thế lực tranh quyền. Đàm Thái hậu không ưa họ Trần, ghét Trần Tự Khánh nên chẳng để cô con dâu Trần thị được yên ổn trong cung, Trần Nguyên phi bị giáng làm Ngự nữ (hàng thấp nhất trong phi tần). Cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa các họ Trần, Đoàn, Nguyễn tới tận 1215 vẫn chưa có hồi kết. Trong chừng đó năm, Trần Thị Dung luôn bên cạnh vua Lý Huệ Tông khi ở cung cấm, lúc bôn ba chạy loạn. Tới đầu năm 1216 Lý Huệ Tông sắc phong Ngự nữ thành Thuận Trinh phu nhân, lúc này bà đã mang thai khoảng 3 tháng. Song vì việc trước đó khi không đón được Lý Huệ Tông thì Trần Tự Khánh lập luôn vua khác rồi đốt phá hoàng cung, càng khiến Đàm thái hậu ghét bỏ, giày vò Trần thị kể cả khi bà đang mang thai Hoàng tự. “Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc nên thường chỉ Trần thị mà nói là bè đảng của giặc, bảo nhà vua phải đuổi bỏ đi. Sau đó, bà Thái hậu lại sai người nói với Trần thị phải tự sát, nhà vua biết bèn ngăn lại. Lại khi Thái hậu cho người lén bỏ thuốc độc vào món ăn uống của Trần thị, nhà vua liền biết ý của mẹ mình, vì vậy mỗi bữa ăn ông thường chia cho Trần thị một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Đủ mọi cách thất bại khiến Đàm Thái hậu không nhịn nữa, bà trực tiếp sai người đem thuốc độc bắt Trần thị phải uống, nhà vua phải can ngăn mãi mới thoát được.” Trước sự tàn độc của Thái hậu, vào tháng 5 (âm lịch) năm 1216, vì sinh mệnh của mẹ con Trần thị, Lý Huệ Tông đã đưa vợ chạy trốn khỏi hoàng cung, lẻn đến chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh ở bãi Cửu Liên. Thuận Thiên công chúa đã ra đời trong hoàn cảnh đẻ rơi trên đường như vậy. Từ đấy, Huệ Tông lại dựa vào Trần Tự Khánh và họ Trần. Tháng chạp, mùa đông cùng năm đó, Lý Huệ Tông chính thức sách lập Thuận Trinh Phu nhân Trần thị làm Hoàng hậu và phong tước cho anh em họ Trần nắm toàn bộ quyền bính trong triều. Có thể thấy, với Hoàng tộc Trần Thị Dung như một con tin họ Trần, với Trần Tự Khánh và tập đoàn họ Trần thì Hoàng hậu nắm giữ trái tim đế vương là quân cờ trong tay, với Đàm thái hậu Trần thị là cái gai trong mắt, còn với Lý Huệ Tông Trần Thị Dung là người vợ ngài yêu thương đồng thời là nỗi khổ tâm, khó xử. Bà hoàn toàn không có quyền lựa chọn, thậm chí chẳng thể biết bản thân mình sống chết thế nào giữa mớ bòng bong hỗn loạn thời đó.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chính vào thời điểm Lý Huệ Tông chọn nghiêng về Trần Tự Khánh với mong muốn bảo toàn tính mạng cho vợ con thì cờ đã về tay họ Trần. Trần Thị Dung độc sủng hậu cung dù chỉ sinh được hai con gái, sử sách ghi nhận Thuận Thiên công chúa và Chiêu Thánh công chúa cũng là hai người con duy nhất của vua Lý Huệ Tông. Anh em họ Trần thay phiên nhau nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong triều. Có lẽ đó là lúc nhà vua đã bỏ ý định loại trừ họ Trần và Thái hậu cũng như họ Đàm không còn chi phối được cục diện. Nhà vua trúng phong (hay là mắc tâm bệnh) đau ốm liên miên rồi “phát điên”, việc triều chính đều do họ Trần quyết định. Những việc tiếp theo xảy đến thì ai cũng đã biết: Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng để xuất gia, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Thái Tông Trần Cảnh, Lý Huệ Tông tự vẫn ở chùa Chân Giáo, Trần Thừa trở thành Thái thượng hoàng mang theo gia quyến trở thành chủ nhân mới của Hoàng cung, Trần Thị Dung bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa rồi gả cho Trần Thủ Độ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dựa trên diễn biến về sau, một số sử gia phong kiến cho rằng Hoàng hậu Trần Thị Dung đã tư thông với Trần Thủ Độ từ lâu và tham gia vào mưu đồ trong các sự việc đó. Song cá nhân mình cho rằng bà ấy không có khả năng can thiệp nhiều đến thế. Chỉ là đứng trước các lựa chọn, bà ấy đã chọn làm theo sắp đặt của Trần Thừa (thủ lĩnh họ Trần sau khi Trần Tự Khánh mất), Trần Thủ Độ (võ tướng) với tham mưu của Phùng Tá Chu (văn thần). Về việc “tư thông” mà sử gia nghi ngờ theo mình là không đủ căn cứ, bởi Trần Thị Dung có hai người con gái, đặt vào vai trò là đương kim hoàng hậu rồi đương kim thái hậu và là mẹ của hai cô con gái, chắc hẳn bà ấy sẽ không muốn mình trở thành “hình ảnh người đàn bà lăng loàn, thất tiết” trong mắt con gái mình. Với Lý Huệ Tông, bà ấy có thể không có tình yêu kiểu “mối tình thiếu nữ”, nhưng cùng nhau trải qua sinh tử, có với nhau hai mụn con, mình tin rằng bà ấy dành cho Lý Huệ Tông tình yêu nặng nghĩa vợ chồng, ân tình ghi khắc. Cái chết của Lý Huệ Tông mình tin là Trần Thị Dung cũng chỉ biết khi sự đã rồi, bởi ngay sau cái chết của Thượng hoàng nhà Lý thì Thượng hoàng họ Trần nhập cung giúp đỡ cho nhà vua còn nhỏ và bà ấy buộc phải rời khỏi Hoàng cung. Còn về lý do Trần Thị Dung đồng ý tái hôn với người em họ Trần Thủ Độ, thì điều ai cũng thừa nhận là Trần Thủ Độ thật lòng yêu bà (nhiều giai thoại kể lại bà là mối tình duy nhất của ông). Còn một điều nữa mình thấy đó là lựa chọn tốt nhất mà bà ấy có thể chọn để đường đường chính chính ở lại kinh thành và tiếp tục có ảnh hưởng tới Hậu cung và Hoàng tộc. Có thể, việc trở thành vợ của Thái sư quyền hành lớn nhất trong triều sẽ giúp bà ấy dễ dàng để mắt tới cô con gái nhỏ đang là người họ Lý duy nhất trong Hoàng cung. Đó chỉ là suy đoán cá nhân, nhưng cũng có thể lắm chứ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau khi Thái thượng hoàng hậu Lê thị rồi Thượng hoàng Trần Thừa lần lượt qua đời khi vua Trần Thái Tông mới 16 tuổi, Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung trở thành hai người có quyền lực lớn nhất (át vua) cả trên triều đình lẫn trong Hoàng tộc. Rất nhiều sự kiện xảy ra sau đó được cho là dưới bàn tay sắp đặt của hai người, tốt có xấu có, khen có chê có, tàn nhẫn có, huy hoàng có. Ở vai trò Quốc mẫu, Trần Thị Dung có can thiệp phế lập, có hoà giải anh em, có nhẫn tâm ép uổng con gái ruột, có hết lòng chăm sóc, bảo vệ cho hậu duệ họ Trần. Về sau bà có sinh cho Trần Thủ Độ một người con trai là Trần Phó Duyệt, cũng chính là cha của danh tướng Trần Khánh Dư oai phong lẫm liệt một thời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1258, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, Linh Từ quốc mẫu đã lập công lao rất lớn giúp nhà vua bảo vệ các hoàng tử, hoàng tôn cùng gia quyến của quý tộc nhà Trần tại khu vực căn cứ Hoàng Giang và chăm lo công tác hậu cần tiếp tế cho tiền tuyến đánh giặc. Năm 1259 một năm sau ngày toàn thắng, bà qua đời dưới năm đầu trị vì của cháu ngoại - Trần Thánh Tông Trần Hoảng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể thấy mỗi hành động của Trần Thị Dung, mỗi quyết định bà lựa chọn, có chuyện là bất khả kháng, có chuyện là chủ ý của bà, có điều có thể hiểu, có điều không thể cảm thông, có việc khiến người ta chê trách muôn thưở, có việc khiến đời đời ghi nhớ công ơn, song có lẽ tất thảy đều xuất phát từ mong muốn bảo toàn tính mạng cho người thân, bảo vệ cơ nghiệp thưở sơ khai của nhà Trần. Cuộc đời bà và cả những gì bà đã làm thật giống như thời khắc chạng vạng sau đêm tàn mở ra rạng đông tới buổi bình minh huy hoàng của triều đại Đông A Đại Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đọc thêm:</p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên
Phượng Tía Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lý Hạo Sảm là đích trưởng tử của Vua Lý Cao Tông, mẹ là An Toàn hoàng hậu Đàm thị, sinh vào tháng 7 năm Giáp Dần (1194) tại kinh đô Thăng Long, Đại Việt. Năm Mậu Thìn (1208), ông được vua cha lập làm Thái tử khi 15 tuổi. Tháng 10 năm 1210 khi vua Lý Cao Tông mất, Thái tử nối ngôi đặt niên hiệu Kiến Gia. Ông là vị vua cuối cùng trong Lý Bát Đế và cũng là ông vua đầu tiên nhường ngôi cho con gái (tức Lý Chiêu Hoàng) để làm Thái Thượng hoàng, ông vua đầu tiên xuất gia đi tu với pháp danh Huệ Quang đại sư. Song những “lần đầu tiên đó” đều do họ Trần ép buộc, để rồi sau đó ông cũng là vị vua đầu tiên bị bức tử năm 1226, hưởng dương 33 tuổi, miếu hiệu Lý Huệ Tông. Sử gia đời sau nhận định Huệ Tông Lý Hạo Sảm là vị vua có số phận bi thảm nhất thời đại phong kiến, cuộc đời ông là chuỗi ngày bất đắc chí từ thưở thiếu thời tới ngày rời dương thế.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/1d664883ddd42a521906c925f5e9d84e43e2fec183005e2450e1014a065a9eed.jpg"alt="3. Ly Hue Tong.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="header"><h2>Thừa kế cơ đồ đã nghiêng ngả từ vua cha Lý Cao Tông</h2></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lý Huệ Tông lớn lên trong buổi suy tàn của triều đại nhà Lý, mà người tạo ra thời tàn đó lại chính là cha ông tức vua Lý Cao Tông. Sử chép khi còn nhỏ, Cao Tông là hoàng tử ngoan lành nên dù là con thứ nhỏ tuổi nhưng được vua cha Lý Anh Tông phong làm Hoàng thái tử sau khi truất ngôi người con cả ăn chơi phóng đãng Lý Long Xưởng. Song khi lớn lên bắt đầu trực tiếp cầm quyền trị nước, Cao Tông lại “<i>sinh ra ham mê săn bắn, chính sự pháp luật không rõ ràng, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch nên trộm cướp nổi lên khắp nơi</i>”. Thượng bất chính hạ tắc loạn, dưới thời Cao Tông chính sự rối ren, giặc giã nổi loạn, gian thần xúc xiểm, trung lương bị hại, dân chúng cực khổ, bất bình oán hận, trộm cướp nổi lên, loạn lạc khắp chốn. Vừa được lập Thái tử năm trước thì năm sau (1209) mới 15 tuổi, Lý Hạo Sảm đã phải cùng mẹ và 2 em gái chạy loạn Quách Bốc tới Hải Ấp, Thái Bình (nhà ngoại Đàm thị) rồi được Trần Lý (hào trưởng vùng Hải Ấp) tôn phò làm Thắng vương (lúc này Quách Bốc đánh chiếm kinh thành đã lập hoàng tử Lý Thầm làm vua), trong khi đó vua Cao Tông chạy về Tam Nông, Phú Thọ nương nhờ thế lực họ Hà. Cũng tại đây ông đã cảm mến và lấy con gái của Trần Lý tức Trần Thị Dung làm vợ. Từ đó thế lực họ Trần nhờ có chính danh bắt đầu tham chính. Gia tài Cao Tông để lại cho Huệ Tông là ngôi quân chủ một đất nước loạn lạc giặc giã khắp nơi, quan lại không còn người tài, chẳng có lấy bề tôi trung thành, các thế lực cát cứ tranh giành, xâu xé quyền lực, vận nước suy vi không gì cứu vãn nổi.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h2>Huynh đệ tương tàn vì ngai vàng dưới bàn tay mẫu hậu An Toàn Đàm Thái hậu</h2></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mẹ của Lý Huệ Tông, An Toàn Đàm Thái hậu được xem là thái hậu tàn ác nhất sử Việt, đầy tham vọng quyền lực, dùng mọi thủ đoạn độc ác tàn nhẫn để trấn áp hậu cung, tranh giành vương vị. Sau khi hạ sinh thái tử và được sắc phong Hoàng hậu, bà bắt đầu đưa thế lực ngoại thích là em trai Đàm Dĩ Mông, một người không có học thức, bất tài, nhu nhược vào triều nắm hết chức vụ quan trọng. Khi được Tô Trung Từ và họ Trần phò tá rước về kính sư sau loạn Quách Bốc, năm 1210, Thái tử Sảm nối ngôi, bà được tôn làm Hoàng thái hậu. Sử chép bà là người cứng rắn, chuyên quyền, khi con trai 16 tuổi lên làm vua, bà đích thân cùng Huệ Tông nghe chính sự, trao quyền lực cao nhất cho Đàm Dĩ Mông cùng trông coi triều chính, mọi việc đều do Thái hậu quyết định. "<i>Thái hậu là người chỉ nghĩ đến dòng họ và củng cố quyền lực nên không có chính sách gì đối với tình hình quốc gia mà chỉ gia tăng thế lực nhằm củng cố địa vị. Từ đó chính sự nhà Lý càng bất ổn.</i>"</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1211, khi Tô Trung Từ chết, Đàm Thái hậu ngờ vực Trần Tự Khánh có mưu đồ phế lập ngôi vua (như Quách Bốc đã từng lập hoàng tử Lý Thầm làm vua), "<i>bà bèn đem ba Hoàng tử; Nhân Quốc vương, Lục hoàng tử và Thất hoàng tử con của Cao Tông với các thị thiếp khác dìm đầu chết ở sau giếng trong cung. Rồi sai đem xác cả ba ngươi vứt ra ngoài thành. Quần thần đều sợ Thái hậu không ai dám can. Thế là ngôi vị của Huệ Tông được giữ vững mà không sợ bị phế lập</i>". Song điều đó cũng có nghĩa rằng Lý Huệ Tông không còn một anh em ruột thịt nào để làm chỗ dựa về sau. Đồng thời hành vi tàn độc giết hại hoàng tự của Thái hậu có thể cũng là một cái “nhân” mà về sau Lý Huệ Tông không có con trai nối dõi (giống như sự việc Linh Nhân thái hậu Ỷ Lan từng tàn sát Thượng Dương thái hậu và hơn 70 cung nhân, rồi sau đó vua Lý Nhân Tông không thể có con trai, cuối cùng phải lập cháu nối ngôi tức vua Thần Tông Lý Dương Hoán).</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h2>Mắc kẹt trong cuộc chiến mẹ chồng nàng dâu</h2></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lý Huệ Tông ở ngôi, về chính sự Đàm thái hậu quyết định mọi việc, về hậu cung một tay Thái hậu trấn áp. Vốn không ưa việc Thái tử lấy Trần Thị Dung, chỉ là con gái hào trưởng địa phương làm vợ, khi trở về triều sau loạn Quách Bốc bà không cho phép Trần Thị Dung theo về cung. Mãi tới khi Thái tử lên ngôi mới sai người đón Trần thị vào cung lập làm Nguyên phi, cũng là lúc bắt đầu những ngày sóng gió hậu cung trong cuộc chiến mẹ chồng nàng dâu. Thái hậu thù ghét con dâu, ngờ vực họ Trần phản trắc thường chỉ vào con dâu mà mắng nhiếc và tìm nhiều cách để giết hại Trần Thị Dung. Sử chép: "<i>Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc nên thường chỉ Trần thị mà nói là bè đảng của giặc, bảo nhà vua phải đuổi bỏ đi. Sau đó, bà Thái hậu lại sai người nói với Trần thị phải tự sát, nhà vua biết bèn ngăn lại. Lại khi Thái hậu cho người lén bỏ thuốc độc vào món ăn uống của Trần thị, nhà vua liền biết ý của mẹ mình, vì vậy mỗi bữa ăn ông thường chia cho Trần thị một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Đủ mọi cách thất bại khiến Đàm Thái hậu không nhịn nữa, bà trực tiếp sai người đem thuốc độc bắt Trần thị phải uống, nhà vua phải can ngăn mãi mới thoát được.</i>" Trước sự hà khắc, tàn nhẫn của Thái hậu, vào tháng 5 (âm lịch) năm 1216, vì sinh mệnh của mẹ con Trần thị, Lý Huệ Tông đã đưa vợ chạy trốn khỏi hoàng cung, lẻn đến chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh ở bãi Cửu Liên. Trưởng nữ của Huệ Tông là Thuận Thiên công chúa đã ra đời trong hoàn cảnh đẻ rơi trên đường như vậy. Từ đấy, Huệ Tông lại dựa vào Trần Tự Khánh và họ Trần. Tháng chạp, mùa đông cùng năm đó, Lý Huệ Tông chính thức sách lập Thuận Trinh Phu nhân Trần thị làm Hoàng hậu và phong tước cho anh em họ Trần nắm toàn bộ quyền bính trong triều. Như vậy có thể thấy ở vị trí làm con và làm chồng, Lý Huệ Tông thực sự mắc kẹt giữa hai người phụ nữ đứng đầu hậu cung. Khi còn trẻ, hầu hết Huệ Tông nghe theo mẹ, đã vài lần thay chỗ dựa, lúc nghiêng sang thế lực họ này, ngả về thế lực họ kia, đã vài lần phong phi, giáng rồi lại lập vị cho Trần Thị Dung dưới tác động của Thái hậu. Song khi đứng trước an nguy cho tính mệnh của vợ con, để con mình thoát khỏi bàn tay tàn nhẫn của bà nội, Lý Huệ Tông đã quyết định chọn dựa vào họ Trần dù rằng hẳn trong lòng Vua phần nào hiểu rõ quyết định đó sẽ mang đến hệ quả tất yếu là thế lực họ Trần ngày càng lớn mạnh trên chính trường.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h2>Ông vua đơn độc trên chính trường</h2></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở ngôi thiên tử khi mới 16 tuổi, hẳn rằng Lý Huệ Tông cũng từng ấp ủ bao hoài bão lớn lao để vực lại cơ đồ họ Lý đang trên đà suy tàn dưới “bàn tay vàng” trong làng “báo thủ” của vua cha Lý Cao Tông. Nhìn lại cuộc đời ông với những lần xoay chuyển chỗ dựa giữa các thế lực đối trọng cho thấy ông vốn không phải là ông vua chỉ thích hưởng nhàn không màng thế sự. Mình rất đồng tình với nhận định này: “<i>Ông loay hoay tìm trung thần nhưng rốt cục ngoảnh đi ngoảnh lại, các sứ quân không ai trung thành với nhà Lý mà đều có toan tính riêng. Lý Huệ Tông không mặn mà họ Trần nhưng lại thực lòng yêu Trần Thị Dung và điều đó được họ Trần khai thác triệt để với vai trò ngoại thích và có vị thế thuận lợi để dẹp yên thiên hạ. Nói một cách khái quát, Lý Huệ Tông không đủ khả năng cứu vãn chính sự nhà Lý mà vua cha Lý Cao Tông đã làm hỏng.</i>” Ở ngôi vua không có trung thần, không người thực lòng phò trợ, anh em thân thích chẳng còn ai, tông thất họ Lý không đủ lực, ngoại thích nhà mẹ thì bất tài, ngoại thích nhà vợ thì nhiều tay gian hùng (Trần Tự Khánh mặc dù phò Huệ Tông nhưng trước đó năm 1213 khi không đón được Huệ Tông đã lập một người con vua Lý Anh Tông là Huệ Văn vương làm vua mới, hiệu Nguyên vương rồi đốt phá toàn bộ kinh thành đưa vua mới về Lý Nhân, Hà Nam), Huệ Tông Lý Hạo Sảm quả thực là ông vua cô độc trên chính ngai vàng và hoang mang trước thời cuộc. Có lẽ những điều đó là lý do không nhỏ khiến ông trúng phong, đau yếu luôn rồi “<i>mắc bệnh điên</i>”, “<i>tự xưng là thiên tướng</i>” từ năm 1217 cho tới khi rời Hoàng cung xuất gia làm Huệ Quang đại sư. Liệu ông có thật sự “phát điên”, hay “giả điên” trước “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, có lẽ chỉ mình nhà vua biết.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h2>Người cha lực bất tòng tâm…</h2></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau sự việc Huệ Tông nghiêng về họ Trần năm 1216, sử sách không còn ghi lại gì về hành động của Đàm thái hậu, có lẽ từ đó họ Trần đã hoàn toàn chiếm ưu thế, họ Đàm không còn quyền hành trên triều. Năm 1217, nhà vua phát điên, chính sự giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Không rõ cuộc chiến mẹ chồng nàng dâu thế nào, năm 1218 hoàng thứ nữ Chiêu Thánh công chúa chào đời, dù mong mỏi song Huệ Tông vẫn không thể có hoàng nam nối dõi. “<i>Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, binh quyền lại rơi vào tay em họ Tự Khánh là Trần Thủ Độ và anh Tự Khánh là Trần Thừa được phong làm Phụ quốc thái úy. Năm 1224, bệnh vua càng nặng hơn. Vua đem chia cả nước làm 24 lộ, chia cho các công chúa. Đến tháng 10, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, ông chính thức nhường ngôi lại cho con gái là công chúa Chiêu Thánh mới lên 7 tuổi, tức là Lý Chiêu Hoàng. Huệ Tông lên làm Thái thượng hoàng và đi tu ở chùa Bát Tháp, lấy pháp danh là Huệ Quang Đại sư.</i>”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vào thời khắc bị ép phải nhường ngôi cho một đứa trẻ, vua Lý Huệ Tông đã táo bạo truyền ngôi cho con gái thứ mới 7 tuổi của mình là Chiêu Thánh công chúa trở thành Nữ đế Lý Chiêu Hoàng. Phải chăng đó là cách cuối cùng nhà vua thể hiện sự phản kháng với mưu đồ của họ Trần khi họ Trần đã sớm sắp đặt để trưởng công chúa Thuận Thiên mới 8,9 tuổi đã làm vợ Trần Liễu, thành dâu họ Trần. Có lẽ, nhà vua nghĩ đằng nào cũng là một đứa trẻ ngồi lên ngai vàng vậy thì ngài chọn đứa trẻ mang họ Lý. Dù biết sẽ chẳng thể dài lâu nhưng chí ít vua cũng để lại giang sơn cho con gái mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không lâu sau, Trần Thủ Độ sắp đặt để Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh, con trai thứ của Trần Thừa, và sau đó là màn Nữ đế nhường ngôi cho chồng, tức Trần Thái Tông. Nhà Lý mất về tay nhà Trần từ đó (1225). Lúc này Thượng hoàng đã xuất gia thoát tục, Huệ Quang đại sư có đoán trước rằng ngày này sẽ tới không? Hẳn là ngài đã biết. Nhà Lý mất ngôi, là hậu duệ họ Lý ngài có phẫn uất không? Chắc chắn là có. Vậy mà ngài cứ thế làm bạn với kinh kệ, không màng thế sự để mặc họ Trần tự tung tự tác, ngang nhiên đoạt vị soán ngôi sao? Nếu không kệ, thì ngài có thể làm gì? Nhà Trần là dòng họ của người vợ ngài từng yêu thương, bảo vệ, giờ cũng đang nắm trong tay cả hai đứa con gái yêu dấu của ngài, họ Trần đã nắm đằng chuôi còn ngài đang cầm đằng lưỡi. Phản kháng ư? Ngài lấy gì để phản kháng, khi ở ngôi thiên tử ngài còn chẳng làm được, giờ là một nhà sư thì ngài có thể làm gì? Có lẽ lý do duy nhất để Huệ Tông tu hành không phải là để khỏi bệnh hay mong cầu giải thoát mà là sinh mệnh của hai người con đặc biệt là Chiêu Thánh, đứa con gái mà ngài buộc phải đưa lên ngai vàng cũng chính là đẩy vào miệng cọp. Năm 1226 khi Trần Thủ Độ ép buộc, Huệ Quang đại sư đã tự tử sau vườn. Người ta có chép lại tình tiết <i>trước khi chết Lý Huệ Tông còn khấn: “Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”</i> và liên hệ với sự việc Hồ Quý Ly bức tử vua Trần Thuận Tông cuổi thời Trần. Tuy nhiên cá nhân mình cho rằng đây là chi tiết đời sau thêm thắt cho tăng phần kịch tính. Bởi rằng thời điểm đó Thuận Thiên là chính thất của Trần Liễu, Chiêu Thánh là Hoàng hậu của Thái Tông Trần Cảnh thì con cháu họ Trần chẳng phải cũng có cả hậu duệ của hai con gái Lý Huệ Tông, là con cháu của chính ngài sao? Có người cha, người ông nào lại buông lời nguyền rủa con cháu mình cơ chứ?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể thấy, chứng kiến bể dâu cuộc đời, tự mình trải qua sóng gió cung đình, loạn lạc khốc liệt, Lý Huệ Tông thật sự không thể làm gì khác ngoài việc lựa chọn hy sinh, nhận lấy phần thua thiệt chỉ với mong mỏi đổi lấy bình an cho hai con gái của mình. Lý Hạo Sảm là người con không có vua cha tốt song ngài thật sự là một người cha tốt. Lý Huệ Tông có thể là ông vua kém tài kém phước, bất lực với thời cuộc, nhu nhược trước quyền thần, yếu mềm trước tình thân và loay hoay, mắc kẹt trong cuộc chiến giữa mẹ và vợ, dù lực bất tòng tâm nhưng mình cho rằng ông ấy là người cha đã làm tất cả những gì có thể cho các con của mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đọc thêm:</p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-4-tran-thi-dung-thuan-trinh-hoang-hau-linh-tu-quoc-mau"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 4 Trần Thị Dung: Thuận Trinh Hoàng Hậu Linh Từ Quốc Mẫu</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên
Phượng Tía Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thuận Thiên công chúa Lý Oánh là trưởng nữ của vua Lý Huệ Tông, vị vua cuối cùng trong Lý Bát Đế. Nàng có lẽ là vị công chúa duy nhất trong lịch sử chào đời trong tình huống “đẻ rơi” trên đường cha mẹ chạy trốn khỏi hoàng cung, trốn khỏi sự thù ghét mẹ nàng của Đàm thái hậu tới chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh và họ Trần (nhà ngoại của nàng). Năm Bính Tý, Kiến Gia năm thứ 6 (1216), mùa hạ, tháng 6 (âm lịch), Lý Oánh được sinh ở bãi Cửu Liên, sắc phong là Thuận Thiên công chúa. Vì sao vua Lý Huệ Tông lại dùng tước phong “Thuận Thiên” vốn là niên hiệu của Lý Thái Tổ, vị vua khai mở Lý triều? Có lẽ lúc đó ông đã ước mong con gái mình có được cuộc đời thuận lợi, bình yên như thời kỳ ấy. Nếu so sánh với chính em gái mình là Chiêu Thánh công chúa (Lý Chiêu Hoàng, Lý Thiên Hinh) thì có thể nói Thuận Thiên có đường đời êm ái, bớt sóng gió thăng trầm, vinh hiển phú quý hơn một chút. Nhưng có lẽ đằng sau những tư liệu ít ỏi sử sách còn chép lại hẳn nàng đã có bao cơn bão lòng trong vòng xoáy vương quyền ở dưới thời nhà Lý mạt vận, nhà Trần soán ngôi.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/3ed517106077b1f58183717fed994d899c6a1fefb3d1f1d833b8fa8b8093ed81.jpg"alt="2. Thuan Thien cong chua thuan theo y troi.jpeg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thuận Thiên công chúa chào đời cùng với quyết định dựa vào họ Trần của vua Lý Huệ Tông đã giúp cho mẹ nàng danh chính ngôn thuận ngồi vào ngôi vị Thuận Trinh Hoàng hậu. Từ đây họ Trần chính thức trở thành thế lực mạnh, dần áp đảo và trở thành dòng họ nắm thực quyền dưới triều Huệ Tông.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lần sinh nở thứ hai của Hoàng hậu Trần Thị Dung tiếp tục là hoàng nữ và mong muốn có một hoàng tử kế vị đã không thể thành hiện thực. Vua Huệ Tông mắc bệnh không làm chủ được chính sự đã trở thành cái cớ để họ Trần can thiệp sâu vào hoàng tộc. Và kết quả là mới 7, 8 tuổi Thuận Thiên công chúa đã phải kết hôn với Trần Liễu con trai trưởng của Trần Thừa, lúc này Trần Liễu đã có nguyên phối là Trần Thị Nguyệt (tức Thiện Đạo Quốc mẫu). Bởi là công chúa nên Thuận Thiên đương nhiên là chính thất, nhưng một cô bé còn nhỏ như vậy đâu đã biết gì. Việc kết hôn ở độ tuổi quá sớm của Thuận Thiên cho thấy đây là sự sắp đặt của họ Trần cho Trần Liễu trở thành con rể trưởng của vua Lý Huệ Tông và rất có thể sẽ thành người nối ngôi chính danh. Thế nhưng trước sức ép của họ Trần và bệnh tình của bản thân, trước khi xuất gia, vua Lý Huệ Tông đã táo bạo truyền ngôi cho con gái thứ mới 6 tuổi là Chiêu Thánh công chúa trở thành Nữ đế Lý Chiêu Hoàng. Phải chăng đó là cách duy nhất nhà vua thể hiện sự phản kháng với mưu đồ của họ Trần và vua nghĩ đằng nào cũng là một đứa trẻ ngồi lên ngai vàng vậy thì ngài chọn đứa trẻ mang họ Lý (vì Thuận Thiên đã thành dâu họ Trần). Dù biết sẽ chẳng thể dài lâu nhưng chí ít vua cũng để lại giang sơn cho con gái mình. Nhưng có lẽ ông không thể ngờ cuộc đời sau này của cả hai cô con gái đều gian truân vì chính ngai vàng này.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mười mấy năm làm vợ&nbsp; Trần Liễu có lẽ là khoảng thời gian êm đẹp nhất mà Thuận Thiên có, nàng may mắn hơn em gái khi có thể trưởng thành bình yên hơn. Bởi đã làm dâu họ Trần từ sớm, nàng không bị mắc kẹt trong cuộc chiến quyền lực giữa tông thất họ Lý với chính quyền họ Trần. Bởi chỉ là vương phi, nàng không phải chịu sức ép sinh con nối dõi hay đối mặt với cuộc chiến hậu cung. Có thể nói Thuận Thiên được chồng và nhà chồng yêu thương. Sử sách ghi lại Thuận Thiên sinh cho Trần Liễu đích tử Trần Doãn (được phong Vũ Thành vương) và sau này có thêm Trần Quốc Khang. Nàng có hạnh phúc trong hôn nhân và đã được tận hưởng niềm vui làm mẹ. Trong những năm tháng ấy, chắc hẳn nàng cũng phải chịu nỗi đau khi cha sớm qua đời, cũng từng trăn trở với cuộc hôn nhân thị phi của mẹ mình và người cậu họ Trần Thủ Độ, cũng từng xót xa khi chứng kiến em gái từ nữ đế trở thành hoàng hậu rồi lại mất đi đứa con trai đầu lòng. Nhưng ở hoàn cảnh đã là con dâu họ Trần, lớn lên trong ngôi nhà họ Trần, nàng chỉ có thể chọn bình yên mà sống trước biến động của thời cuộc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thế nhưng những ngày bình yên cũng chẳng kéo dài mãi. Năm 1237, trước nỗi lo huyết thống hoàng gia đứt đoạn, Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung đã ép buộc Trần Thái Tông phế bỏ Chiêu Thánh hoàng hậu.&nbsp; Lúc này Thuận Thiên đang mang thai 3 tháng và đồng thời là công chúa của Lý Huệ Tông “bị chọn” làm hoàng hậu. Màn “giành vợ cướp con” này dẫn tới sự kiện Trần Liễu làm loạn bất thành, Trần Cảnh trốn lên Yên Tử đi tu không được và gây ra mối hiềm khích trong 2 nhánh trưởng thứ họ Trần. Mặc dù có phản kháng nhưng kết cục là cả 4 người cháu đều không thoát khỏi bàn tay Thái sư. Trần Cảnh buộc phải quay về phế lập Hoàng hậu, Trần Liễu để giữ mạng sống phải an phận làm An Sinh vương, Chiêu Thánh Hoàng hậu bị giáng làm công chúa và bị giam lỏng nơi cung cấm. Còn Thuận Thiên phải trở thành Hoàng hậu của em chồng đồng thời là em rể mình. Người phụ nữ lúc mang thai 3 tháng là thời điểm mệt mỏi nhất. Ấy vậy mà vào lúc đó,&nbsp; Thuận Thiên còn phải đối mặt với biến cố kinh hoàng, đảo lộn mọi trật tự như vậy. Từ 4 anh chị em, 2 cặp vợ chồng thân thiết trong nhà trở thành những người không còn đủ tự tin để nhìn mặt nhau nữa. Đáng tiếc thay, người được Trần Thủ Độ chọn làm vua là Trần Cảnh mà không phải Trần Liễu, nhưng người được chọn làm hoàng hậu lại là Thuận Thiên mà không phải Chiêu Thánh. Người ta có thể đặt câu hỏi tại sao Thuận Thiên không phản kháng? Có lẽ phải đặt mình vào vị trí của nàng để hiểu. Trước sức ép của người có thể bất chấp tất cả đạo lý để đảm bảo lợi ích gia tộc như Trần Thủ Độ, vì đứa con nàng hoài thai trong bụng và cả đứa con đang ở phủ Hoài vương, vì tính mạng của người chồng thất thế ngoài kia, vì an nguy của cô em gái bất hạnh bị giam lỏng trong cung, Thuận Thiên không còn lựa chọn nào khác, nàng phải chấp nhận ngồi vào ghế Hoàng hậu nhà Trần. Thế rồi dòng đời đưa đẩy, hai năm sau khi sinh Trần Quốc Khang (đứa con của Trần Liễu trở thành trưởng tử của Trần Thái Tông), ở ngôi Hoàng hậu, Thuận Thiên buộc phải sinh Hoàng tử nối ngôi cho nhà vua. Liên tiếp trong ba năm nàng hạ sinh Hoàng thái tử Trần Hoảng (vua Trần Thánh Tông) và hoàng tử Trần Quang Khải (Chiêu Minh đại vương). Có lẽ niềm an ủi lớn nhất mà nàng có chính là những đứa con và được chứng kiến chúng trưởng thành bình yên hơn, hạnh phúc hơn cha mẹ. Chưa đầy 30 tuổi Thuận Thiên đã làm mẹ của 4 đứa trẻ, sinh 2 con trai cho Trần Liễu và 2 con trai cho Trần Cảnh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử chép, năm Mậu Thân, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 17 (1248), tháng 6 âm lịch, Thuận Thiên Hoàng hậu qua đời, hưởng dương 33 tuổi. Có một số tư liệu ghi lại trước khi mất Hoàng hậu sinh hạ Thái Đường công chúa là người con gái đầu tiên của vua Trần Thái Tông. Vậy là Thuận Thiên hoàng hậu đột ngột mất sớm cũng vào độ tuổi 33 như cha mình (vua Lý Huệ Tông). Đến sau cùng, khi đã sinh hạ 5 người con cho hoàng tộc họ Trần chắc hẳn nàng ra đi với sự mệt mỏi và cả nỗi day dứt lo lắng cho những đứa con thơ mất mẹ khi còn nhỏ dại. Sử cũng ghi lại, 3 năm sau khi Thuận Thiên mất, năm 1251, tháng 4 âm lịch, An Sinh vương Trần Liễu qua đời, hưởng dương 41 tuổi. Vậy là 2 người anh, chị trong bi kịch 4 người đã rời đi ở còn tuổi đời còn trẻ. Biết đâu ở một nơi nào đó, Thuận Thiên và Trần Liễu đã có cơ duyên để đoàn tụ cùng nhau sau bể dâu đời người.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thuận Thiên Hoàng hậu Lý Oánh, cuộc đời nàng tuy ngắn ngủi và gian truân, nhưng nàng đã hoàn thành vai trò lịch sử sinh hạ những hậu duệ tài năng, đức độ của hai họ Trần-Lý trở thành quốc chủ Đại Việt. Nàng đã từng hạnh phúc, cũng từng đớn đau, đã từng cười cũng từng khóc trước thời cuộc. Nàng sống đã trọn vẹn một đời nữ nhân hoàng tộc, nàng mất đi cũng để lại đức độ của vị tổ mẫu đầu tiên cho dòng dõi Đông A vang danh sử sách với 3 lần chiến thắng đế quốc Nguyên Mông hung tàn. Là thuận theo ý trời mà cũng chẳng thể lựa chọn, nàng cứ thế trôi theo dòng chảy lịch sử và nàng đã làm tốt nhất những gì có thể cho những người nàng thương yêu, trân quý suốt một đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đọc thêm:</p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-3-hue-tong-ly-hao-sam-nguoi-cha-luc-bat-tong-tam"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 3 Huệ Tông Lý Hạo Sảm: Người Cha Lực Bất Tòng Tâm</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Tác giả uy tín
henry nguyen Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Patrick-Édouard Bloch-Carcenac – mảnh cuối cùng của triều Nguyễn, tiếng vọng từ một dòng máu bị lãng quên.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>I. Một khúc mở đầu giữa sương mù</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lịch sử thường được viết bởi những người chiến thắng, ghi danh những kẻ có ngai vàng, danh vị, quyền lực. Nhưng bên ngoài ánh đèn lịch sử, luôn tồn tại những tiếng nói thì thầm – lặng lẽ, mơ hồ – như tiếng chuông mỏng rơi trên vùng đất xa lạ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Patrick-Édouard Bloch-Carcenac là một trong những tiếng nói ấy.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không phải một cái tên quen thuộc trong sử Việt, ông không được sinh ra trong hoàng cung, không lớn lên giữa những lễ nhạc nghiêm trang, càng không từng hiện diện trên bản đồ chính trị. Nhưng ông là con ruột của hoàng đế Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn – người đã sống những năm cuối đời tại Pháp, như một ẩn sĩ thời hậu đế chế.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Và Patrick – con út, sinh năm 1958 tại Alsace – là mảnh cuối cùng trong câu chuyện hoàng tộc chưa bao giờ được kể trọn vẹn.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>II. Người con bị lịch sử lãng quên</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mẹ ông, Christiane Bloch-Carcenac, là một phụ nữ Pháp hiền hậu và kín tiếng. Bà gặp Bảo Đại trong một buổi săn bắn vào năm 1957, khi vị hoàng đế đã thoái vị, sống lưu vong tại Côte d’Azur. Mối tình ấy kéo dài gần một thập kỷ, nhưng không bao giờ được thừa nhận công khai.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Patrick lớn lên tại thị trấn Erstein, vùng Alsace, trong một gia đình Do Thái. Trong suốt tuổi thơ, ông luôn tin rằng ông Georges Bloch – người chồng của mẹ – là cha ruột của mình. Mãi đến khi khoảng 9 tuổi, sự thật lộ diện. Không phải qua những lời thì thầm trong gia đình, mà giữa một khách sạn tráng lệ tại Paris. Trong thang máy khách sạn George V, vua Bảo Đại nhìn Patrick và nói với một người bạn:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“C’est mon fils.” – “Đây là con trai tôi.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chỉ một câu, nhưng đã làm thay đổi toàn bộ ý thức của Patrick về bản thân. Từ đó trở đi, ông không còn nhìn mình là một đứa trẻ Pháp bình thường. Ông trở thành người con không ngai, mang trong người một dòng máu bị lãng quên.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/a3b13b52b95f19295665d4070920dc6f065f436f6674034a4490c97962df68a1.jpg"alt="506725557_29869314972716873_8440877693379033257_n (1).jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>III. Những ngày làm con của một vị vua… không ngai</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dù không sống chung, nhưng Bảo Đại thường đến đón Patrick sau giờ học. Hai cha con trò chuyện về triết học, văn hóa, lịch sử. Không có sự răn dạy của vua chúa, không nghi lễ, không sâm nghiêm – chỉ là hai con người, một già, một trẻ, nối kết bởi một thứ tình cảm mong manh nhưng ấm áp.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong hồi ký “Tu dois l’appeler Majesté” (tạm dịch: “Con phải gọi ngài là Bệ hạ”), Patrick viết rằng cha ông luôn giữ sự lịch lãm, nhẹ nhàng và trí tuệ. Nhưng ông chưa từng gọi cha là “cha”. Khoảng cách giữa hai thế giới – giữa một ông vua sống nửa thật nửa huyền thoại và một đứa trẻ sinh ra không được thừa nhận – không bao giờ hoàn toàn xóa nhòa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Ông chưa bao giờ nói 'ta yêu con'. Nhưng tôi biết, ông quan tâm.” – Patrick viết.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>IV. Sự im lặng của danh phận</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Patrick-Édouard chưa bao giờ được ghi vào gia phả chính thức của triều Nguyễn. Bảo Đại từng ngỏ ý làm thủ tục công nhận ông là con, trao tước vị "hoàng tử", nhưng ông từ chối.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Tôi không thấy cần thiết. Đó chỉ là một hình thức.” – ông nói trong một phỏng vấn với Le Courrier du Vietnam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông chọn sống như một người thường. Làm doanh nhân, sau này về hưu sống tại Strasbourg. Ông không mang họ cha, không khoe dòng máu quý tộc, cũng không bao giờ kiện tụng đòi thừa kế hay danh vị.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong thời đại mà người ta sẵn sàng làm mọi cách để được ghi tên trong lịch sử, Patrick chọn im lặng và tử tế – một sự vương giả hiếm thấy trong kỷ nguyên hỗn loạn.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>V. Thân phận lai: không quê hương nào đủ rộng</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Patrick mang trong mình dòng máu Á–Âu. Ở Pháp, ông là “người gốc Đông Dương”. Ở Việt Nam, ông là “người Pháp mang họ mẹ”. Ông từng nói:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Tôi không hoàn toàn thuộc về nơi nào cả. Nhưng tôi học cách yêu từng phần trong mình.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chính thân phận ấy khiến ông hiểu sâu sắc thế nào là chia cắt. Không chỉ giữa hai bờ đại dương, mà còn giữa hai lớp bản sắc: một bên là tính thực tế, lý trí của người Pháp; một bên là chiều sâu huyền thoại, cốt cách hoài niệm của người Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông sống giữa hai thế giới, và chưa từng đòi hỏi được chọn bên. Ông ôm lấy cả hai, như thể mình là nhịp cầu nối giữa những gì từng là đối lập.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>VI. Ký ức và khát vọng về cội nguồn</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong những năm gần đây, Patrick viết hồi ký, xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn, và bắt đầu chia sẻ câu chuyện đời mình – không phải để đòi công lý, mà để trả lại một phần tiếng nói cho lịch sử bị bỏ quên.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông mơ một ngày được đặt chân đến Huế, thắp nhang nơi mộ cha. Đứng trước thành nội rêu phong, giữa âm vọng cung đình cũ, ông không cần người gọi mình là hoàng tử – chỉ cần được nhìn nhận như một phần của Việt Nam, như một người con xa xứ trở về.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>VII. Lời kết: Người cuối cùng của một triều đại</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong thời đại mà những hậu duệ hoàng tộc tranh giành di sản, Patrick chọn lặng im. Trong một thế giới ồn ào danh lợi, ông viết sách, sống âm thầm, và giữ cho riêng mình một chiếc ngai – chiếc ngai bằng nhân cách và ký ức.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ông là người cuối cùng mang dòng máu vua Bảo Đại – không ngai vàng, không sảnh lớn, không cận thần – chỉ có ánh sáng trong đôi mắt, và trái tim biết ơn một lịch sử đã sinh ra mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Lịch sử không cần biết tôi là ai. Nhưng tôi biết rõ tôi thuộc về đâu.” – Patrick-Édouard Bloch-Carcenac.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>📌 Ghi chú nguồn: – Le Courrier du Vietnam, bài phỏng vấn tháng 5/2025. – Hồi ký “Tu dois l’appeler Majesté”, Éditions du Panthéon, 2021. – Các nguồn phụ: DNA.fr, Vietnam-Aujourd’hui, bài viết tổng hợp từ Việt Nam và pháp</p></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên
Phượng Tía Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Nếu tìm suốt chiều dài lịch sử một người để trao danh hiệu “Nữ hoàng nước mắt” Đại Việt thì đó chỉ có thể là nàng, Nữ đế duy nhất trong thời đại phong kiến: Chiêu Hoàng Lý Thiên Hinh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Lý Chiêu Hoàng cất tiếng khóc chào đời vào tháng 9 âm lịch, năm Mậu Dần 1218. Bi kịch đầu đời của nàng chính là sinh ra trong hoàng tộc vào thời buổi nhà Lý suy tàn. Nàng lại là tiểu công chúa trong khi cha mẹ và bao người khao khát mong đợi một hoàng nam, một người thừa kế. Nàng là con gái thứ của vua Lý Huệ Tông, trước nàng đã có Thuận Thiên công chúa. Mẹ nàng, Thuận Trinh hoàng hậu Trần Thị Dung vốn không được lòng thái hậu, lại chỉ sinh hai con gái nên càng trở thành cái gai trong mắt bà nội. Cha nàng, ông vua ngồi trên ngai vàng nhưng không mang thực quyền, dù rất yêu vợ thương con cũng đành bất lực trước những cuộc đấu đá tranh giành của các phe phái triều đình, bất lực giữa cuộc chiến mẹ chồng nàng dâu nơi cung cấm. Nàng vốn được cha đặt tên là Phật Kim, nhưng không rõ vì sao sau đó lại đổi thành Thiên Hinh, tước hiệu Chiêu Thánh công chúa. Có lẽ ngay từ việc đặt tên không thuận lợi đã báo hiệu cho một đời sóng gió về sau.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/093bebcd9dcf26efdb9bb803e1332aab754a91d329751fd026a6bc5019b159f6.jpg"alt="1. Nu hoang nuoc mat Ly Thien Hinh.jpeg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Năm 1224, mới 6 tuổi, Thiên Hinh được vua cha truyền ngôi báu trở thành Lý Chiêu Hoàng dưới sức ép của thế lực Trần gia, họ ngoại của nàng. Một cô bé 6 tuổi thì có thể làm được gì ở&nbsp; trên ngai vàng? Nàng chỉ có thể trở thành quân cờ trong tay chính mẹ ruột, thái hậu Trần Thị Dung và những người thân bên ngoại, để rồi nhanh chóng đi tới cuộc đổi thay triều đại sau màn nhường ngôi cho chồng và cũng là anh họ của nàng: Thái Tông Trần Cảnh. Vị Công chúa trở thành Hoàng thái nữ, Nữ đế rồi từ đây nàng lui về hậu cung là Chiêu Thánh hoàng hậu khi vừa 7 tuổi. Người đời trách tội nàng làm mất ngôi nhà Lý, thậm chí Đền Đô cũng chỉ thờ 8 vị vua “Lý Bát Đế” còn vị vua thứ 9 là nàng thì thờ riêng tại Long Miếu. Ở cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nàng đã trở thành “tội nhân” của dòng họ Lý.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Bi kịch nối tiếp bi kịch, chẳng bao lâu sau màn đổi thay triều đại, năm 1226 cha nàng, vua Lý Huệ Tông lúc này đã xuất gia, bị thái sư Trần Thủ Độ ép tự vẫn khi mới 32 tuổi. Tiếp đó, với phương châm diệt trừ tất cả những mối nguy với cơ nghiệp nhà Trần, Trần Thủ Độ liên tục ra tay đàn áp họ Lý, hạch tội, truy sát tôn thất, bắt người họ Lý đổi sang họ khác, khiến hoàng tử Lý Long Tường (chú của vua Huệ Tông) phải dẫn theo gia quyến rời bỏ quê hương tới tận Cao Ly nương thân. Vậy là ở ngôi hoàng hậu, mới 8 tuổi, Thiên Hinh liên tiếp chịu nỗi đau mất người thân: mất cha, mất bà, người thân họ nội bị chính họ ngoại truy sát. Ngày mẹ nàng, Trần Thị Dung tái giá lấy Trần Thủ Độ- người cậu họ cũng là người gây ra tấn thảm kịch cho họ Lý, nàng mất luôn chỗ dựa nơi đấng sinh thành. Thiên Hinh chẳng đi đâu cả, nàng vẫn ở Hoàng cung nơi nàng sinh ra và lớn lên, nhưng ngôi nhà đó đã không còn là nhà của nàng nữa. Hoàng cung đã đổi chủ và Thiên Hinh chỉ còn lại một thân một mình, cô đơn trong chính ngôi nhà của mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Số phận vẫn không ngừng thử thách người từng ở ngôi nữ hoàng. Lấy chồng từ thưở lên 7, tới năm 15 tuổi thì Thiên Hinh hạ sinh con trai đầu lòng. Tiếc thay Hoàng thái tử Trần Trịnh mất ngay sau khi chào đời để lại nỗi đau khôn nguôi cho cha mẹ. Kể từ đó sức khỏe của Chiêu Thánh hoàng hậu giảm sút. Nàng và Trần Cảnh chung sống nhiều năm nhưng chưa có con nối dõi. Năm 1237, trước nỗi lo huyết thống hoàng gia đứt đoạn, một lần nữa thái sư Trần Thủ Độ ra tay ép buộc Trần Thái Tông phế Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên,chị gái nàng cũng là chị dâu của vua, đang mang thai 3 tháng làm hoàng hậu. Màn “giành vợ cướp con” này dẫn tới sự kiện Trần Liễu (anh của Trần Cảnh, chồng của Thuận Thiên) làm loạn bất thành, Trần Cảnh trốn lên Yên Tử đi tu không được và gây ra mối hiềm khích trong 2 nhánh trưởng thứ mà sau này họ Trần chủ trương hôn nhân nội tộc để ràng buộc, hàn gắn. Kết cục là cả 4 người cháu đều không thoát khỏi bàn tay Thái sư. Thái Tông buộc phải phế lập Hoàng hậu, Thuận Thiên trở thành Hoàng hậu của em chồng đồng thời là em rể, Trần Liễu để giữ mạng sống phải an phận làm An Sinh vương, còn Thiên Hinh bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa. 15 tuổi nàng mất con, 19 tuổi mất ngôi hoàng hậu, mất luôn cả chồng. Nàng từng là nữ đế rồi thành phế đế, từng là hoàng hậu giờ lại thành phế hậu. Nàng không thể rời khỏi Hoàng cung bởi ông cậu Thái sư không để nàng ra khỏi tầm mắt. Thiên Hinh bị giam lỏng trong chính ngôi nhà của mình. Nàng chỉ có thể âm thầm lặng lẽ, cô đơn sống qua ngày.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Mười một năm sau, năm 1248 một lần nữa Thiên Hinh mất đi người chị duy nhất của mình. Thuận Thiên hoàng hậu đột ngột qua đời khi chỉ mới 32 tuổi, để lại 4 đứa trẻ cháu mồ côi còn quá nhỏ. Những năm sau đó, vua Trần Thái Tông có nạp phi nhưng không hề lập hậu. Sử sách không còn nhắc đến Thiên Hinh, nhưng hẳn rằng nàng không thể đếm nổi bao nhiêu nước mắt đã rơi cùng những đứa cháu của mình nơi Hoàng cung rộng lớn mà vắng bóng người thân.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Sử sách chỉ nhắc tới Thiên Hinh trong một chuyện thị phi khác. Năm 1258, sau chiến thắng trước quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thái Tông đem gả Chiêu Thánh công chúa cho&nbsp; quan Ngự sử đại phu Lê Tần, người đã lập đại công giúp vua thắng giặc và được ban tên Lê Phụ Trần. Lê Tần vốn là cận thần đồng trang lứa với vua Thái Tông, cũng có nghĩa rằng ở thời điểm ban hôn cả Lê Tần và Lý Thiên Hinh đều đã ngoài 40 tuổi. Quyết định này của vua gây nhiều tranh cãi, đàm tiếu trong thiên hạ. Có người nói nhà vua bạc tình “chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”. Kẻ chỉ trích nhà Trần luân thường hủ bại, Trần Thái Tông đem vợ ban thưởng, Lê Tần là bầy tôi mà lấy lại vợ vua, Chiêu Thánh chấp thuận gả đi là mất hết liêm sỉ. Cũng có người đời sau đặt giả thiết biết đâu việc ban hôn là bình phong cho cái kết của một mối tình khác. Sử chép lại ngay sau khi ban hôn, trong tháng giêng, Lê Phụ Trần với tước phò mã Bảo Văn Hầu được Vua cử đi sứ nhà Nguyên. Sau khi tái giá, Chiêu Thánh công chúa rời xa kinh thành về phủ họ Lê. Cùng năm, ngày 24 tháng 2 âm lịch, Trần Thái Tông truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Hoảng tức vua Trần Thánh Tông và lui về làm Thái thượng hoàng. Sau khi nhường ngôi, Thượng hoàng thường ở phủ Thiên Trường (Nam Định) hoặc am Thái Vi thuộc hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), khi có việc mới trở về kinh sư.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Ở tuổi 40, cuộc đời Lý Thiên Hinh rẽ sang một lối khác, lần này là rời xa Hoàng cung nơi nàng gắn bó quá nửa đời người. Có bao nhiêu nước mắt đau thương, mất mát, đắng cay, nghiệt ngã nàng đã khóc suốt thời niên thiếu tới tuổi trung niên? Không ai biết được. Nhưng vào 20 năm cuối của cuộc đời, hẳn nàng đã rơi những giọt nước mắt hạnh phúc khi được làm mẹ, được chứng kiến con trai và con gái trưởng thành. Sử chép lại Chiêu Thánh công chúa sinh được hai người con, con trai là Thượng vị hầu Lê Tông sinh năm 1259, sau này được ban quốc tính, chính là danh tướng Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng, con gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê sau được gả cho Trạng nguyên Trần Cố. Cả một đời sóng gió của Nữ đế khép lại với hạnh phúc tuy muộn màng nhưng thật xứng đáng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; &nbsp; &nbsp;Dù thế nào đi nữa, “Nữ hoàng nước mắt” của Đại Việt cũng đã làm trọn vai trò dấu gạch nối giữa hai triều đại. Dù lịch sử chẳng viết nhiều về nàng nhưng có một sự thật rành rành: cuộc đời đẫm nước mắt của nàng đã góp phần giảm bớt tang thương thời loạn, giúp cho thiên hạ thái bình, Trần triều thịnh trị.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đọc thêm:</p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-2-thuan-thien-cong-chua-thuan-theo-y-troi-hay-chang-the-lua-chon"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 2 Thuận Thiên Công Chúa: Thuận Theo Ý Trời Hay Chẳng Thể Lựa Chọn?</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên
Phượng Tía Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/4c9d9fa83ee1dbc2321acbb0f5b70acf4d893124516ed1ab14d78a44806a6e94.jpg"alt="11. Tien Dung cong chua.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo Lĩnh Nam chích quái và các thần tích <i>“Tiên Dung nghe tin vua cha tức giận, sợ không dám trở về nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, lập phố sá, đổi chác với dân gian. Dần dần nơi ấy trở thành một ngôi chợ lớn, buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa”</i>.&nbsp; Nếu như đức lang quân của nàng - Chử Đồng Tử được tôn là “Chử Đạo tổ”, ông tổ “tu tiên” thì Mỵ nương Tiên Dung chính là “Bà tổ” nghề buôn bán nước ta vậy. Là công chúa con vua mà lại thành “bà tổ khởi nghiệp” rồi tu đạo thành tiên, chúng ta cùng xem thử một trong những hình mẫu người phụ nữ Việt thời kỳ Văn Lang như thế nào nhé!</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>SINH RA Ở VẠCH ĐÍCH</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Hùng Vương thứ 18 (tức nhành Hùng Duệ Vương) đời thứ 3 có một nàng Mỵ nương (con gái vua gọi là Mỵ nương, con trai gọi là Quan lang) tên là Tiên Dung, nhan sắc tuyệt trần, đã đến tuổi trưởng thành mà không chịu lấy chồng, chỉ thích ngao du sơn thủy. Hùng Vương yêu con gái, chiều theo ý nàng. Mỗi năm khoảng tháng hai, tháng ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh sông nước, vui chơi quên cả ngày về.” </i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể thấy Tiên Dung quả thực sinh ra ở vạch đích, lớn lên trong êm đềm, được yêu thương hết mực. Là công chúa cành vàng lá ngọc, đi đâu cũng có kẻ hầu người hạ, đến tuổi cập kê nhưng không chịu lấy chồng vẫn được cha chiều ý. Nàng may mắn hơn rất nhiều công chúa khác phải chấp nhận&nbsp; cuộc hôn nhân chính trị để giúp vua cha, vua anh, vua em giữ vững ngai vàng. Nàng tốt số hơn bao nhiêu cô gái khác phải làm khuê nữ loanh quanh trong vườn nhà góc bếp chẳng bao giờ được đi xa. Nàng cũng chọn một lối sống khác, không chịu lấy chồng dù đã đến tuổi trưởng thành. Để nàng được ung dung tự tại, tự do như thế hẳn là vua cha yêu thương nàng rất nhiều, nhiều tới độ có thể bỏ qua mọi phong tục tập quán. Và ngược lại, để được vua cha yêu thương đến vậy, tin tưởng cho thân gái một mình đi xa như thế chắc chắn Tiên Dung là người con gái không chỉ có sắc mà còn có tài, có tình yêu thương, có phẩm chất, đức hạnh hơn người.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1>&nbsp;Ý TRỜI HAY LÒNG NGƯỜI?&nbsp; &nbsp;&nbsp;</h1></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Vào một ngày đẹp trời Tiên Dung cho thuyền dạo chơi dọc sông Hồng, đi qua vùng Chử Xá (nay là Gia Lâm, Hà Nội). &nbsp;Lúc đó Chử Đồng Tử&nbsp;</i><i>(người đàn ông không một mảnh khố) đang ngâm mình bắt cá dưới sông, nhìn thấy từ xa đoàn thuyền dong buồm đi tới, sợ quá chàng liền chạy lên bờ nhằm khóm lau vùi mình xuống cát.&nbsp;Ngắm phong cảnh hữu tình, Tiên Dung liền cho dừng thuyền lại, sai thị nữ lên bờ quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Chử Đồng Tử sợ hãi định chạy trốn. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, thấy chàng hiếu thảo, bản tính thật thà, ngẫm là duyên trời định bèn nói: "Ta và chàng tình cờ gặp nhau thế này, âu cũng là nhân duyên do trời sắp đặt", liền đó nàng truyền mang quần áo cho Chử Đồng Tử và cùng chàng làm lễ kết duyên ngay trên thuyền.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người viết đặt ra câu hỏi nếu gặp phải tình huống như vậy một công chúa có thể xử lý thường dân kia thế nào? &nbsp;“Tên dân đen láo xược, dám khi quân phạm thượng với công chúa lá ngọc cành vàng. Người đâu lôi ra chém” =))) Có thể lắm chứ. Cứ xử trảm bịt đầu mối, diệt trừ hậu hoạ là xong. Đằng nào thì đó cũng chỉ là một tên dân đen nghèo hèn đến độ cái khố cũng chẳng có. Đằng nào thì Tiên Dung vốn không muốn lấy chồng. Đằng nào thì cũng chỉ có vài người biết việc này mà đều là người thân tín của công chúa, việc bịt miệng không hề khó. Chẳng phải Chử Đồng Tử cũng xác định tư tưởng, đã nghĩ tới cái chết nên mới sợ hãi định chạy trốn đó thôi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thế nhưng việc dễ không muốn lại đi chọn việc khó mà làm. Công chúa lá ngọc cành vàng chủ động ngỏ ý kết duyên với chàng trai không quen biết, không “nhà mặt phố bố làm to”, không tài sản phòng thân, không sính lễ cưới hỏi. Ừ cứ cho là có thể bởi tình yêu sét đánh đi nhưng một cô gái như Tiên Dung lớn lên trong giàu sang, đã từng ngao du khắp chốn không phải người không hiểu sự đời. Thì cứ cho là “duyên trời sắp đặt” đi, nhưng thân là Mỵ nương con vua, được giáo dục đàng hoàng tử tế sao nàng không biết vua cha, gia đình sẽ nhìn nhận thế nào mà lại “kết duyên ngay trên thuyền”. Lĩnh Nam chích quái có đoạn <i>“Hùng Vương giận bảo: “Tiên Dung không biết trọng danh tiết, không biết tiếc tiền của, đi chơi giữa đường lại hạ giá với người nghèo, còn mặt mũi nào mà thấy ta nữa. Từ nay mặc kệ nó, không cho về kinh nữa.” </i>Nàng không phải không biết hệ quả của quyết định đó, tại sao lại chọn thế khó cho mình? Người viết mạo muội nghĩ có lẽ là bởi tình thương người và lòng trắc ẩn, bởi nàng thật sự coi trọng tính mạng người dân thường cũng quý như tầng lớp quý tộc, bởi nàng cảm động trước lòng hiếu thảo của Chử Đồng Tử với cha, cảm thương cho cảnh ngộ nghèo hèn khốn khó của chàng. Trong tình yêu đôi lứa ẩn chứa cả tình thương người, lòng nhân ái và vị tha vậy. Bởi thế mối tình của Tiên Dung và Chử Đồng Tử có thể gọi là ý trời se duyên gặp gỡ, lòng người định cuộc hôn nhân. Và người quyết định ở đây là đàng gái, là Mỵ nương Tiên Dung. Nàng vốn tâm niệm không định lấy chồng, nhưng trong tình huống éo le như vậy, nàng chọn lấy chồng vừa là tin vào ý trời vừa là muốn cho chàng trai kia một con đường sống. Lòng nhân ái của Tiên Dung còn được thể hiện rõ khi sau này nàng lập chợ buôn bán không chỉ xây dựng kinh tế cho gia đình mình mà còn giúp người dân có cơ hội kiếm sống tốt hơn, hay khi thành đạo, nàng cùng chồng chu du khắp nơi truyền đạo cho người, dùng y thuật cứu nhân độ thế.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>KHỞI NGHIỆP TỪ HAI BÀN TAY TRẮNG</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đúng như dự đoán của tất cả mọi người, Hùng Vương nghe tin Tiên Dung tự ý lấy Chử Đồng Tử thì nổi giận lôi đình. Sao không giận cho được khi “ngoan xinh yêu” của cha mười mấy năm nâng niu chiều chuộng lại không thèm hỏi cha một câu báo cha một lời mà tự ý kết hôn. Sao không đau cho được khi mà bao mối tốt ngon lành cành đào vua cha chọn thì nàng không nghe, còn bảo không định lấy chồng, giờ thì hay chưa lại đi lấy kẻ nghèo hèn, bần cùng nhất thiên hạ. Đã thế thì đừng có vác mặt về đây nữa, đừng hòng động đến bất cứ tiền tài nào của ta, từ rày ta không có đứa con này, Tiên Dung không còn là Mỵ nương nữa. Thế là nàng công chúa của chúng ta từ vạch đích quay về điểm xuất phát, mất đi tước vị hoàng tộc, không có tài sản, không còn gia đình người thân, chỉ được một tấm chồng cũng vô sản nốt. Kể cũng cám cảnh, nghe cũng thảm thương. Nhưng Tiên Dung là người con gái thật sự dũng cảm, dám làm dám chịu, dám quyết định hôn nhân thì dám đồng cam cộng khổ với bạn đời, dám làm trái ý vua cha thì dám tự mình đi lên từ hai bàn tay trắng. Quả là tinh thần mạnh mẽ, bản lĩnh kiên cường của “bà tổ khởi nghiệp”. =)) Bởi chàng ở vùng sông nước thạo nghề đánh cá, bởi nàng sống ở kinh đô Phong Châu vốn biết trồng dâu nuôi tằm dệt vải, thế là hai vợ chồng chăm chỉ lao động tạo dựng cuộc sống. Xuất thân là công chúa vùng cao lại từng đi khắp nơi theo đường sông nước, Tiên Dung nhận ra nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các vùng miền để sản vật nơi này đều có thể tới tay người sống ở nơi khác, khi có chút vốn liếng nàng cùng chồng mở chợ rồi lập phố sá giao thương, mở ra nghề buôn bán cho người dân quanh vùng. Trời chẳng phụ lòng người dày công dốc sức, phố chợ của vợ chồng nàng ngày càng sầm uất, thịnh vượng, giao thương cả trong nước và ngoại quốc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Một hôm có khách buôn đến nói với Tiên Dung rủ chung mối làm ăn, đem vàng cùng ra nước ngoài mua hàng về bán sẽ có lãi to.”&nbsp; </i>Với trực giác nhạy bén của người làm kinh doanh, nàng nhận ra cơ hội tốt liền bảo chồng cùng hùn vốn với họ<i>. “Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Viên (nay là núi Nam Giới thuộc Hà Tĩnh), thuyền ghé lấy nước ngọt. Trên núi còn có ngôi cổ tự, Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chàng bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Chử Đồng Tử đã tu thành đạo, Phật Quang tặng chàng một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông. Về đến nhà Chử Đồng Tử truyền đạo lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán cùng chồng đi khắp nơi cứu nhân độ thế.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể thấy, Tiên Dung không chỉ là người phụ nữ khéo vun vén, một “doanh nhân nhạy bén trên thương trường” mà cũng là người vợ hậu phương vững chắc cho chồng. Nàng lấy chàng không một tài sản, không của hồi môn, nàng cùng chàng bảo nhau làm ăn gây dựng cuộc sống. Nàng khuyên chàng ra biển lớn làm giàu và nàng tin tưởng con đường chàng chọn, theo chàng học đạo tu tiên thay vì tiếp tục kiếm tiền. Nhờ thế mà Tiên Dung giác ngộ<i>. </i>Khi hiểu thấu<i> </i>đạo trời, hai vợ chồng từ bỏ phố chợ của mình, đem tài sản chia cho dân chúng rồi cùng nhau ngao du hành đạo, cứu giúp chúng sinh. Trước kia, nàng mở ra nghề buôn bán giúp bản thân và dân chúng gia tăng tài sản, có cuộc sống tốt hơn. Sau khi thành đạo, nàng không còn dính mắc vào tiền tài danh vọng, sẵn sàng buông nghề để làm việc thiện, việc có ý nghĩa, truyền đạo cứu đời, bốc thuốc cứu mạng giúp cho nhiều người hơn nữa. Khi từ bỏ mọi thứ ngoài thân lại là lúc có được tất cả. <i>“Ngày nọ, trong lúc trời tối, người đã thấm mệt, xung quanh hiu quạnh không nhà cửa, hai vợ chồng bèn cầm gậy che nón nằm dưới mà nghỉ. Nửa đêm chỗ ấy nổi lên thành quách, cung điện bằng châu ngọc, kho tàng đầy đủ của cải, không thiếu một thứ gì, lại thêm tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ lính hầu xúm xít quanh hai vợ chồng. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.” </i>Là bởi phúc đức của hai vợ chồng đã tới ngày hái quả, hai người từ bỏ gia sản từ nghề buôn bán lại càng sung túc, thịnh vượng hơn xưa. Khi nghèo khó hay lúc giàu sang vợ chồng nàng vẫn không quên hành đạo, tiếp tục tục giúp đời cứu người.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>ĐẠO HIẾU VÀ TỪ BI</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể nói Tiên Dung cùng chồng cứu đời độ thế chẳng nợ người dân, chỉ nợ một ân tình, một chữ hiếu với vua cha của nàng. Thế nên biến cố cần đến sẽ phải đến. <i>“Nghe tin vợ chồng Tiên Dung dùng phép lạ dựng thành quách, Hùng Vương cho là có ý tạo phản, liền xuất binh đi đánh dẹp. Quân nhà vua đến, người dưới xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng lệnh cha mình, chờ chịu tội. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi đất cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung và Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ sụp xuống thành một cái đầm rất lớn. Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là Hà Thị.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nếu như câu chuyện mở đầu bằng điểm sáng về lòng hiếu thảo của Chử Đồng Tử với người cha Chử Cù Vân, thì truyền thuyết khép lại vụt sáng ở việc Tiên Dung tròn chữ hiếu với vua Hùng. Cha không cho về, nàng chẳng dám về. Cha cho là phản loạn sai quân đi dẹp, nàng không kháng mệnh cha mà khoanh tay chờ chết. <i>“Chuyện này cũng không phải tự ta làm ra, cũng là trời run rủi. Ta đâu dám cự lại phụ vương. Sống chết nhờ trời, dẫu ta có bị phụ vương giết cũng không dám oán hận.”</i> Nàng tự thấy mình có lỗi khi làm cha tức giận mà từ mặt, nàng thấy mình có tội khi khiến cha phiền não, âu lo mà sai quân tiêu diệt. Nàng cũng không muốn vì mình mà liên luỵ sinh mệnh khác, khiến chiến tranh xảy ra, bao người rơi cảnh lầm than, sinh ly tử biệt. Nàng chọn quy hàng, nghe theo mệnh trời và bất bạo động. Trong lòng hiếu thảo với cha có cả đức hiếu sinh với dân chúng. Tiên Dung và Chử Đồng Tử đã sống vẹn toàn đạo hiếu và lòng từ bi. Bởi thế mà vợ chồng nàng thăng thiên, trở thành thần bảo hộ. Thành quách đến từ phép lạ cũng biến mất một cách kỳ lạ, chỉ để lại vết tích là đầm Nhất Dạ cùng truyền thuyết lưu danh muôn đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể nói Tiên Dung công chúa là một trong những hình tượng hiếm hoi về người phụ nữ Việt xưa được khắc họa rõ nét trong thần tích. Từ truyền thuyết về nàng, ta càng thêm yêu, thêm tự hào, thêm kính phục và ngưỡng mộ người phụ nữ tự do tự tại, dám là chính mình, dám chịu trách nhiệm, đảm đang tháo vát, chu toàn việc nhà lăn xả việc nước, vẹn toàn đạo hiếu chung thuỷ chữ tình và giàu lòng nhân ái, từ bi, trắc ẩn. Hình tượng Mỵ nương Tiên Dung vừa phản ánh hiện thực và có lẽ cả ẩn chứa ước mơ của người phụ nữ Việt cổ. Phụ nữ thời hiện đại ở thế hệ con cháu như chúng ta còn phải học “bà tổ nghề buôn” dài dài ha.😊</p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, để giữ vững thế trận và an toàn cho lực lượng cách mạng, các cán bộ chiến sĩ phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc hoạt động bí mật. Một những phương châm lúc bấy giờ là: “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng.”</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/b97bd78f0b69620479714882395ffa12a207544c78cebbecae5d3405c3b1b4c5.jpg"alt="500617834_122206527170085001_8084145729463464056_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Đi không dấu” là một thách thức gian nan. Một vài người đi có thể không để lại nhiều dấu vết nhưng khi cả đoàn hành quân, từng vệt giày in hằn trên đất trở thành nguy cơ bị địch phát hiện. Để ngụy trang, các chiến sĩ phải trải nilon khi qua vạt cỏ, xóa dấu giày trên bùn đất và dùng nước rửa sạch những vết dính. Chỗ mắc võng phải có lớp lót giúp không để lại vết hằn trên thân cây. Tất cả vật dụng dùng xong đều được chôn giấu kỹ, kể cả chất thải sinh hoạt, không để lại một dấu tích nào giữa rừng già.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Căn cứ trong rừng là nơi ra vào thường xuyên, nếu không cẩn thận sẽ lộ thành đường mòn khiến địch dễ dàng phát hiện. Vì vậy, chiến sĩ ta phải kê những khúc cây dài hàng trăm mét để bước đi mà không chạm đất. Khi có nguy cơ, tất cả được thu lại và xóa sạch dấu vết. Xung quanh căn cứ, cây rừng được tạo hình như ngã đổ tự nhiên với những cạm bẫy chờ sẵn bên trong.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Nấu không khói” là cả một kỳ công. Những bếp Hoàng Cầm âm dưới đất giúp che giấu hoàn toàn khói lửa. Một số nơi phải nấu lúc chiều muộn, có khi đang nấu dở cơm phải dập lửa vì tiếng máy bay địch. Chỉ một làn khói mong manh cũng có thể đánh đổi bằng cả chục mạng sống.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Còn “nói không tiếng” là nguyên tắc bất di bất dịch khi hành quân. Mọi thông tin truyền đi bằng ám hiệu, cử chỉ. Có khi, chỉ một động tác sai cũng khiến cả đoàn rơi vào nguy hiểm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ba nguyên tắc trên là kết tinh bởi ý chí thép, sự linh hoạt và bản lĩnh của những con người sống giữa ranh giới sinh tử với mục đích giữ vững từng tấc đất, tấc rừng cho Tổ quốc hôm nay.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook: <a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Tác giả uy tín
henry nguyen Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có những cái tên, qua năm tháng không phai – không phải vì người đời thường nhắc đến, mà vì chính bản thân họ đã viết nên một chương sử rực rỡ, dẫu im lặng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đỗ Hữu Vị, người con trai út của Tổng đốc Nam Kỳ, từ Chợ Lớn bôn ba sang trời Âu năm mười bốn tuổi, bước vào đời bằng gươm súng, kết thúc bằng đôi cánh thép giữa chiến địa Somme. Giữa cơn gió lộng Paris, có ai nghe tiếng máy bay rung lên năm 1910, khi một người Đông Dương dám khoác lên mình bộ đồ phi công – thứ vốn dĩ chỉ dành cho người Pháp da trắng?</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/dbd82e1e5d54ca2036f4c431e3037ef2148c589b19d95d088fcffa0978bec8b2.jpg"alt="465397629_9090486950996729_7956706790343078721_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Anh đã từng bay qua những miền nắng cháy ở Morocco, nơi cát bụi hoang mạc và súng đạn chẳng hề biết thương hoa tiếc ngọc. Những chuyến trinh sát đầu tiên của người gốc Á đã khiến nước Pháp sửng sốt: "Lì lợm, can trường và chính xác." Một tờ báo Pháp thời ấy viết: “Đỗ Hữu Vị bay không phải để làm đẹp cho thuộc địa, mà để nhắc nước Pháp rằng, Đông Dương cũng có người tài.”</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/3613833a71eb2de341a46565294610e441059c2be5e2ecda8211ab382c6e1a47.png"alt="465593331_9090486947663396_6646466377352378578_n.png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1914, khi cả châu Âu chìm trong máu và khói, anh xin ra trận. Một sĩ quan Pháp da vàng, điều gần như không tưởng thời bấy giờ, đã bay vào vùng đất kẻ thù – mang về những bản đồ chiến lược giúp Pháp giữ thế thượng phong. Một tai nạn suýt đoạt mạng không khiến anh ngưng lại. Khi không còn bay được nữa, anh rời buồng lái để cầm súng. Một lần cuối, tại cánh đồng Somme, giữa đạn pháo mịt mù, người sĩ quan ấy hô lớn, xông lên cùng tiểu đoàn Lê Dương, ngã xuống trong tiếng hô “Vive la France!” và... trong thinh lặng của đất mẹ Việt xa xăm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Gần một thế kỷ sau, nước Pháp dựng nên Place Đỗ Hữu Vị, một quảng trường trang trọng giữa Paris, nơi giao nhau giữa đại lộ Versailles và phố Louis Blériot – người thầy hàng không năm xưa của anh. Trên tấm bảng đá, hàng chữ khắc bằng tiếng Pháp hiện lên: “Phi công, tử trận tại mặt trận Somme cho đất nước An Nam và cho nước Pháp.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không phải ai cũng có một con đường mang tên mình. Và càng hiếm hơn, một người Việt, được nước Pháp khắc ghi như một phần không thể thiếu trong lịch sử cộng hòa của họ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có lẽ điều khiến người ta xúc động không chỉ là chiến công, mà là lựa chọn của một người Việt trong thời đại thuộc địa: sống không cúi đầu, học giỏi hơn cả người bản xứ, bay cao hơn những định kiến, và hy sinh như một công dân danh dự.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở đâu đó trong lòng nước Pháp, khi hoàng hôn rơi trên cầu Grenelle, những cánh chim mòng biển vẫn sải bay ngang quảng trường mang tên anh. Có thể người qua đường sẽ không biết về anh, nhưng nước Pháp – và cả quê hương này – nên nhớ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Anh là cánh chim An Nam, đã từng bay giữa trời Âu bằng đôi cánh dũng cảm và một trái tim rực sáng.</p></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Tác giả uy tín
henry nguyen Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có những cái tên, qua năm tháng không phai – không phải vì người đời thường nhắc đến, mà vì chính bản thân họ đã viết nên một chương sử rực rỡ, dẫu im lặng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đỗ Hữu Vị, người con trai út của Tổng đốc Nam Kỳ, từ Chợ Lớn bôn ba sang trời Âu năm mười bốn tuổi, bước vào đời bằng gươm súng, kết thúc bằng đôi cánh thép giữa chiến địa Somme. Giữa cơn gió lộng Paris, có ai nghe tiếng máy bay rung lên năm 1910, khi một người Đông Dương dám khoác lên mình bộ đồ phi công – thứ vốn dĩ chỉ dành cho người Pháp da trắng?</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/dbd82e1e5d54ca2036f4c431e3037ef2148c589b19d95d088fcffa0978bec8b2.jpg"alt="465397629_9090486950996729_7956706790343078721_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Anh đã từng bay qua những miền nắng cháy ở Morocco, nơi cát bụi hoang mạc và súng đạn chẳng hề biết thương hoa tiếc ngọc. Những chuyến trinh sát đầu tiên của người gốc Á đã khiến nước Pháp sửng sốt: "Lì lợm, can trường và chính xác." Một tờ báo Pháp thời ấy viết: “Đỗ Hữu Vị bay không phải để làm đẹp cho thuộc địa, mà để nhắc nước Pháp rằng, Đông Dương cũng có người tài.”</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/3613833a71eb2de341a46565294610e441059c2be5e2ecda8211ab382c6e1a47.png"alt="465593331_9090486947663396_6646466377352378578_n.png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1914, khi cả châu Âu chìm trong máu và khói, anh xin ra trận. Một sĩ quan Pháp da vàng, điều gần như không tưởng thời bấy giờ, đã bay vào vùng đất kẻ thù – mang về những bản đồ chiến lược giúp Pháp giữ thế thượng phong. Một tai nạn suýt đoạt mạng không khiến anh ngưng lại. Khi không còn bay được nữa, anh rời buồng lái để cầm súng. Một lần cuối, tại cánh đồng Somme, giữa đạn pháo mịt mù, người sĩ quan ấy hô lớn, xông lên cùng tiểu đoàn Lê Dương, ngã xuống trong tiếng hô “Vive la France!” và... trong thinh lặng của đất mẹ Việt xa xăm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Gần một thế kỷ sau, nước Pháp dựng nên Place Đỗ Hữu Vị, một quảng trường trang trọng giữa Paris, nơi giao nhau giữa đại lộ Versailles và phố Louis Blériot – người thầy hàng không năm xưa của anh. Trên tấm bảng đá, hàng chữ khắc bằng tiếng Pháp hiện lên: “Phi công, tử trận tại mặt trận Somme cho đất nước An Nam và cho nước Pháp.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không phải ai cũng có một con đường mang tên mình. Và càng hiếm hơn, một người Việt, được nước Pháp khắc ghi như một phần không thể thiếu trong lịch sử cộng hòa của họ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có lẽ điều khiến người ta xúc động không chỉ là chiến công, mà là lựa chọn của một người Việt trong thời đại thuộc địa: sống không cúi đầu, học giỏi hơn cả người bản xứ, bay cao hơn những định kiến, và hy sinh như một công dân danh dự.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở đâu đó trong lòng nước Pháp, khi hoàng hôn rơi trên cầu Grenelle, những cánh chim mòng biển vẫn sải bay ngang quảng trường mang tên anh. Có thể người qua đường sẽ không biết về anh, nhưng nước Pháp – và cả quê hương này – nên nhớ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Anh là cánh chim An Nam, đã từng bay giữa trời Âu bằng đôi cánh dũng cảm và một trái tim rực sáng.</p></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Tác giả uy tín
henry nguyen Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có những cái tên, qua năm tháng không phai – không phải vì người đời thường nhắc đến, mà vì chính bản thân họ đã viết nên một chương sử rực rỡ, dẫu im lặng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đỗ Hữu Vị, người con trai út của Tổng đốc Nam Kỳ, từ Chợ Lớn bôn ba sang trời Âu năm mười bốn tuổi, bước vào đời bằng gươm súng, kết thúc bằng đôi cánh thép giữa chiến địa Somme. Giữa cơn gió lộng Paris, có ai nghe tiếng máy bay rung lên năm 1910, khi một người Đông Dương dám khoác lên mình bộ đồ phi công – thứ vốn dĩ chỉ dành cho người Pháp da trắng?</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/dbd82e1e5d54ca2036f4c431e3037ef2148c589b19d95d088fcffa0978bec8b2.jpg"alt="465397629_9090486950996729_7956706790343078721_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Anh đã từng bay qua những miền nắng cháy ở Morocco, nơi cát bụi hoang mạc và súng đạn chẳng hề biết thương hoa tiếc ngọc. Những chuyến trinh sát đầu tiên của người gốc Á đã khiến nước Pháp sửng sốt: "Lì lợm, can trường và chính xác." Một tờ báo Pháp thời ấy viết: “Đỗ Hữu Vị bay không phải để làm đẹp cho thuộc địa, mà để nhắc nước Pháp rằng, Đông Dương cũng có người tài.”</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/3613833a71eb2de341a46565294610e441059c2be5e2ecda8211ab382c6e1a47.png"alt="465593331_9090486947663396_6646466377352378578_n.png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1914, khi cả châu Âu chìm trong máu và khói, anh xin ra trận. Một sĩ quan Pháp da vàng, điều gần như không tưởng thời bấy giờ, đã bay vào vùng đất kẻ thù – mang về những bản đồ chiến lược giúp Pháp giữ thế thượng phong. Một tai nạn suýt đoạt mạng không khiến anh ngưng lại. Khi không còn bay được nữa, anh rời buồng lái để cầm súng. Một lần cuối, tại cánh đồng Somme, giữa đạn pháo mịt mù, người sĩ quan ấy hô lớn, xông lên cùng tiểu đoàn Lê Dương, ngã xuống trong tiếng hô “Vive la France!” và... trong thinh lặng của đất mẹ Việt xa xăm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Gần một thế kỷ sau, nước Pháp dựng nên Place Đỗ Hữu Vị, một quảng trường trang trọng giữa Paris, nơi giao nhau giữa đại lộ Versailles và phố Louis Blériot – người thầy hàng không năm xưa của anh. Trên tấm bảng đá, hàng chữ khắc bằng tiếng Pháp hiện lên: “Phi công, tử trận tại mặt trận Somme cho đất nước An Nam và cho nước Pháp.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không phải ai cũng có một con đường mang tên mình. Và càng hiếm hơn, một người Việt, được nước Pháp khắc ghi như một phần không thể thiếu trong lịch sử cộng hòa của họ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có lẽ điều khiến người ta xúc động không chỉ là chiến công, mà là lựa chọn của một người Việt trong thời đại thuộc địa: sống không cúi đầu, học giỏi hơn cả người bản xứ, bay cao hơn những định kiến, và hy sinh như một công dân danh dự.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở đâu đó trong lòng nước Pháp, khi hoàng hôn rơi trên cầu Grenelle, những cánh chim mòng biển vẫn sải bay ngang quảng trường mang tên anh. Có thể người qua đường sẽ không biết về anh, nhưng nước Pháp – và cả quê hương này – nên nhớ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Anh là cánh chim An Nam, đã từng bay giữa trời Âu bằng đôi cánh dũng cảm và một trái tim rực sáng.</p></div>