Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Trong quá trình tìm hiểu Sử Việt thời đại nhà Trần, mình chợt nhận ra cuộc đời của Thái Tông Trần Cảnh và hậu duệ đời thứ 4 của ngài,nMinh Tông Trần Mạnh có khá nhiều nét tương đồng. Mình tự hỏi: Liệu có phải lịch sử lặp lại? Chúng ta cùng xem thử một số điểm giống nhau giữa 2 cụ cháu nhé.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/d1e21191ecca4dff1356f63fe0ad78efa946c06f2b971125a9f3648ab1f833d8.jpg"alt="Tran Thai Tong Tran Minh Tong_Ging Tran.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong quá trình tìm hiểu Sử Việt thời đại nhà Trần, mình chợt nhận ra cuộc đời của Thái Tông Trần Cảnh và hậu duệ đời thứ 4 của ngài,nMinh Tông Trần Mạnh có khá nhiều nét tương đồng. Mình tự hỏi: Liệu có phải lịch sử lặp lại? Chúng ta cùng xem thử một số điểm giống nhau giữa 2 cụ cháu nhé.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Điểm đầu tiên, Trần Cảnh và Trần Mạnh đều không phải con trưởng/con đích nhưng lại được ngôi báu</i></b>, khác với thường lệ của nhà Trần nhiều đời đều truyền ngôi cho đích tử/trưởng tử. Trần Cảnh là vị vua chính thức đầu tiên của nhà Trần, ông được ngôi báu nhờ bàn tay sắp đặt của họ Trần để Lý Chiêu Hoàng nữ đế cuối cùng của triều Lý nhường ngôi cho chồng. Còn với Trần Mạnh, lý do “nhẹ nhàng” hơn, được truyền ngôi bởi vì ông là người con trai duy nhất còn sống đến tuổi trưởng thành của vua Anh Tông Trần Thuyên.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Thứ hai, cả hai ông vua này đều lấy hai chị em gái làm vợ.</i></b> Trần Thái Tông đã quá nổi tiếng với cuộc hôn nhân từ thưở lên 7 với Lý Chiêu Hoàng và sau đó là sự kiện phế lập tai tiếng lấy vợ giành con của anh trai do Trần Thủ Độ ép buộc, phế Chiêu Thánh hoàng hậu, lập chị gái vợ đồng thời là chị dâu mình làm Thuận Thiên hoàng hậu. Còn Trần Minh Tông, người vợ đầu tiên của ông là Anh Tư Nguyên phi Lê thị (mẹ sinh của hai vua Trần Hiến Tông và Trần Nghệ Tông) nhưng dù rất yêu thương song không thể lập nàng làm hoàng hậu. Chắc hẳn do sức ép của tông thất nhà Trần lúc bấy giờ kiên quyết giữ chủ trương không cho người họ khác ở ngôi quốc mẫu. Sử chép tháng 12 năm 1323, Minh Tông hoàng đế lúc này đã 23 tuổi sách phong con gái trưởng của Huệ Võ Đại vương Trần Quốc Chẩn (chú ruột vua) là Huy Thánh công chúa làm Lệ Thánh Hoàng hậu (mẹ sinh của vua Trần Dụ Tông). Điều đặc biệt, Lệ Thánh Hoàng hậu là em họ vua nhưng đồng thời lại là chị gái cùng mẹ khác cha với Anh Tư Nguyên phi. Mẹ của hai bà là con gái của Nguyễn Thánh Huấn, thầy dạy vua Trần Nhân Tông khi còn là Thái tử. Sử không chép rõ vì lý do gì mà Nguyễn phu nhân sinh con gái trưởng cho Huệ Võ Đại vương nhưng sau đó lại lấy một người họ Lê và sinh ra Anh Tư Nguyên phi. Một điểm thú vị nữa ở đây là cả vua đều lấy lại vợ người. Nếu như Trần Thái Tông phải lấy vợ của anh trai ruột làm Hoàng hậu, thì Trần Minh Tông phải lấy lại vợ của chú họ làm Hoàng hậu. Ban đầu Huy Thánh công chúa vốn được gả cho Uy Túc công Trần Văn Bích (cháu nội Chiêu Minh vương Trần Quang Khải), theo vai vế thì Uy Túc công là chú họ của vua Trần Minh Tông. Sử không chép rõ quãng thời gian hôn nhân ra sao, có thể là bà&nbsp;<a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Ly_h%C3%B4n">ly hôn</a>&nbsp;hoặc bị buộc phải bỏ Uy Túc công mà sau đó, bà lại trở về nhà cha là Huệ Vũ vương và được sắp đặt chọn làm Hoàng hậu cho Minh Tông. Vậy mới thấy cả hai cụ cháu vua Trần, mặc dù ở ngôi cửu ngũ chí tôn nhưng cũng chẳng được lập Hoàng hậu theo ý muốn. Và cũng cho thấy tông thất họ Trần chấp niệm với “hôn nhân nội tộc” khắc nghiệt tới mức nào.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Điểm thứ ba, cha vợ của hai vua đều chết sớm do bị người khác ép buộc, vu oan.</i></b> <br>Nhạc phụ của vua Trần Thái Tông là vua Lý Huệ Tông Lý Hạo Sảm. Năm 1224, sau khi nhường ngôi cho con gái Lý Chiêu Hoàng, vua đã xuất gia lấy pháp danh là Huệ Quang đại sư. Không lâu sau đó năm 1225, Trần Thủ Độ sắp đặt để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Thái Tông. Tới năm 1226 thì Trần Thủ Độ ép Huệ Quang đại sư phải tự vẫn vì “lo sợ lòng dân nhớ vua cũ” khi mới 33 tuổi. <br>Còn cha vợ của Trần Minh Tông cũng chính là chú ruột của ông: Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn. Sử chép năm 1328, Minh Tông đã làm vua được 15 năm, tuổi khá cao mà chưa lập được Thái tử. Mặc dù các thứ phi đã sinh được các hoàng tử Trần Vượng, Trần Nguyên Trác, Trần Phủ&nbsp;nhưng Lệ Thánh Hoàng hậu vẫn chưa sinh được con trai. Triều đình bấy giờ chia làm hai phái: phe của Trần Quốc Chẩn muốn Minh Tông đợi bằng được đến khi hoàng hậu sinh con trai, rồi mới lập Thái tử. Lệ trước giờ của nhà Trần, vốn không lập con của người khác họ lên ngôi, mà đều lập con của các hoàng hậu, hoàng phi có xuất thân trong hoàng gia, cốt là để tránh họa ngoại thích mà bản thân họ Trần đã dùng khi thay ngôi nhà Lý.&nbsp;Trái lại, phe của Cương Đông Văn Hiến hầu (người trong nhánh Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật)&nbsp;và Thiếu bảo Trần Khắc Chung ủng hộ lập Hoàng trưởng tử, con của Anh Tư Nguyên phi là Trần Vượng làm Thái tử. Bấy giờ, Văn Hiến hầu đã đưa 100 lạng vàng&nbsp;cho gia nô của Quốc Chẩn là Trần Phẫu, rồi xúi giục Phẫu tố giác với Minh Tông rằng Quốc Chẩn có ý mưu phản. Ngay lập tức, nhà vua truyền lệnh bắt giam Quốc Chẩn vào chùa Tư Phúc trong hoàng thành Thăng Long, rồi xin ý kiến Trần Khắc Chung (thầy dạy của vua) về vấn đề này. Trần Khắc Chung đã thuyết phục Minh Tông rằng&nbsp;"bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". Nghe lời Khắc Chung, Minh Tông truyền bắt Quốc Chẩn phải tuyệt thực. Tháng 3 âm lịch năm 1328, Trần Quốc Chẩn chết, hàng trăm người khác cũng bị bắt vì có liên quan với Quốc Chẩn. Một thời gian sau, hai người vợ Trần Phẫu ghen nhau, bèn tố giác việc Phẫu nhận vàng của Văn Hiến hầu lên Minh Tông. Hoàng đế sai bắt giam Phẫu. Ngay ngày hôm đó, ngục quan Lê Duy tiến hành xét xử, khép Phẫu vào tội lăng trì. Vua Minh Tông tha chết cho Văn Hiến hầu, nhưng xoá tên khỏi hoàng gia và giáng làm thứ dân. Sự việc này hẳn đã gây ra vết rạn nứt lớn trong Hoàng tộc. Trần Minh Tông về cuối đời thường bị ám ảnh về cái chết oan của Trần Quốc Chẩn. Nếu như cha vợ của Trần Thái Tông, vị vua tiền triều, bị Trần Thủ Độ ép chết nhằm đảm bảo ngôi vị cho họ Trần, Trần Thủ Độ cũng chính là người tạo ra lệ lập con dòng đích lên ngôi, thì cha vợ của Trần Minh Tông vốn là tông thất Hoàng tộc lại hàm oan mà chết vì bảo vệ đến cùng lệ cũ chỉ lập con đích làm Hoàng thái tử đó.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Điểm thứ tư, cả hai cụ cháu đều gánh chịu nỗi đau “người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh”.</i></b> <br>Vào năm 15 tuổi, vua Trần Thái Tông chưa kịp vui mừng khi được làm cha thì đã mất con. Năm 1233, Hoàng thái tử Trần Trịnh yểu mệnh, vừa chào đời đã mất, để lại nỗi đau khôn nguôi cho nhà vua và Chiêu Thánh hoàng hậu. Còn vua Trần Minh Tông, ở tuổi 41 phải tiễn con trai trưởng là vua Hiến Tông Trần Vượng khi vua Hiến Tông mới chỉ 22 tuổi, chưa kịp có con nối dõi. Sau khi Hiến Tông qua đời, năm 1342, với nỗi day dứt về án oan của Huệ Vũ Đại vương cùng việc quay lại tiền lệ các đời trước, Trần Minh Tông lúc này đã là Thượng hoàng lập Trần Hạo, con trai của Hiến Từ Thái thượng Hoàng hậu thuộc dòng đích lên ngôi vua, tức vua Trần Dụ Tông.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nếu như Trần Thái Tông là hoàng đế khai mở triều Trần đưa Đại Việt đi qua giai đoạn loạn lạc, khó khăn để ổn định đất nước, thì thời đại của Trần Minh Tông cùng với cha ông được mệnh danh là thời kỳ hưng thịnh của vương triều nhà Trần, “Anh Minh thịnh thế”. Chỉ tiếc rằng sau khi Trần Minh Tông qua đời, vua Trần Dụ Tông ăn chơi bỏ bê chính sự, ăn chơi sa đọa, tin dùng làm cơ nhà Trần suy yếu. Một điều thú vị nữa là mẹ sinh của vua Trần Minh Tông, Chiêu Từ hoàng thái hậu (Huy Tư hoàng phi, Chiêu Hiến quận chúa) chính là con gái của Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng (nhiều khả năng là con trai Lý Chiêu Hoàng). Như vậy có thể nói Trần Minh Tông là hậu duệ nhiều đời của cả vua Trần Thái Tông và nữ đế Lý Chiêu Hoàng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Bánh xe lịch sử xoay vần, liệu có phải lịch sử lặp lại giữa các thế hệ trong Hoàng tộc nhà Trần hay không là nhận định riêng của mỗi người. Song những bài học chung được lặp lại cho những người con trong một gia đình, người thân trong cùng dòng họ hẳn là không phải là chuyện hiếm có.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>(Nguồn tư liệu: Đại Việt sử ký toàn thư, Wikipedia, Internet)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-5-thai-tong-tran-canh-muon-vi-nhan-gian"><div class="link-title">Nữ Đế Chuyện Chưa Kể: Kỳ 5 Thái Tông Trần Cảnh: Muôn Vị Nhân Gian</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vào những năm đầu thế kỷ XXI có hàng triệu khán giả vô cùng yêu thích gameshow ẩm thực nổi tiếng “Vua đầu bếp” (MasterChef), chương trình đã được sản xuất ở 35 quốc gia và phát sóng tại ít nhất 200 quốc gia, vùng lãnh thổ. Thế mà ở Việt Nam ta đã có một Vua đầu bếp “xịn xò” từ tận ba bốn nghìn năm trước. Đó chính là Vua Hùng Vương thứ 7, Hùng Chiêu Vương hay còn gọi là Lang Liêu, người đã được truyền ngôi vua nhờ làm ra món bánh Tết cổ truyền: bánh Chưng, bánh Giầy. Hôm nay, chúng ta cùng bàn luận về vị “Vua đầu bếp” Văn Lang này nhé.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/d51ebf60164e750651dd1626880f310951691d8fce85b639dbfa1ddd2efb8323.jpg"alt="Lang Lieu.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>(Nguồn ảnh: Đại Việt kỳ nhân)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Lang Liêu, Hoàng tử thứ&nbsp; 18 sớm mồ côi mẹ</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, mục "Truyện bánh chưng", vào thời nước Văn Lang đời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân, đất nước thái bình, Vua tự thấy tuổi mình đã cao, sức khoẻ ngày một suy yếu nên có ý định chọn người nối ngôi. Hùng Vương bèn cho gọi 22 vị quan lang (hoàng tử) lại mà bảo rằng: <i>"Nay cha biết mình sắp gần đất xa trời. Cha muốn truyền ngôi cho một trong số anh em các con. Các con hãy chuẩn bị món ăn quý làm lễ dâng cúng tổ tiên. Ai có món vừa ý ta thì ta sẽ truyền ngôi cho."</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Phải công nhận rằng Hùng Vương thứ 6 là vị vua có cách chọn người nối ngôi độc nhất vô nhị, Ngài không chọn con trưởng kế vị, chẳng chọn người văn hay võ giỏi, cũng không chọn người được quan quân ủng hộ mà là chọn người dâng lên tổ tiên món ăn đặc biệt nhất. Có lẽ khi đất nước đã thái bình, Vua muốn nhắc nhở các con ghi nhớ công lao các bậc tiền nhân, hiếu kính tiên tổ. Và cũng có thể thông qua sự độc đáo và ý nghĩa của món ăn, Vua muốn nhìn ra người con nào có đức có tài, có tấm lòng rộng lớn đủ năng lực gánh vác ngôi vị đứng đầu đất nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nghe vua cha phán truyền, các quan lang thi nhau cho người đi khắp nơi tìm thức ngon vật lạ, lên rừng săn bắn xuống biển quăng chài, nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Duy có quan lang thứ 18 tên là Lang Liêu sớm mồ côi mẹ, trong nhà neo người, chẳng ai giúp đỡ nên khó bề toan tính, ngày đêm lo lắng, ăn ngủ không yên. Chỉ còn 3 ngày nữa là tới kỳ thi mà Lang Liêu vẫn chưa biết nên làm món gì. Đêm hôm đó, chàng nằm gác tay lên trán lo lắng, suy nghĩ rồi ngủ quên lúc nào không biết. Trong khi mơ màng, chàng thấy một vị thần từ trên trời bay xuống giúp đỡ, thần bảo: <i>"Trong trời đất không vật gì quý bằng hạt gạo, vì gạo là để nuôi sống con người và có thể ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được. Hãy giã nhuyễn gạo nếp đem gói thành bánh hình tròn để tượng trưng cho Trời. Rồi lại lấy lá gói thành bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ở trong có nhân đỗ xanh và thịt tượng trưng cho cỏ cây, muông thú…"</i>. Lang Liêu giật mình tỉnh dậy, vui mừng khôn xiết. Chàng lựa những hạt nếp trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân đỗ xanh và thịt vào giữa, đem luộc chín gọi là bánh Chưng tượng trưng cho Đất. Chàng lại lấy nếp nấu xôi đem giã cho nhuyễn mịn như bột rồi nhào thành hình tròn gọi là bánh Giầy tượng trưng cho Trời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng ta dễ dàng thấy, nếu so với các vị quan lang khác thì Lang Liêu không có bất kỳ lợi thế nào, bản thân chàng lúc đó có thể chẳng hề nghĩ tới việc giành được ngôi vua. Song chàng không vì thế mà tự ti, bỏ cuộc hay than thân, trách phận. Chàng ngày đêm lo lắng bởi chàng thật lòng muốn làm được món ăn quý để bày tỏ lòng thành, dâng lên tiên tổ. Chính tấm lòng hiếu thảo, sự chân thành của chàng đã cảm động trời xanh, để rồi thần xuất hiện trong mơ đem cho chàng lời chỉ dẫn và từ đó chàng sáng tạo ra món bánh Chưng, bánh Giầy thật ngon và đầy ý nghĩa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Vua đầu bếp Văn Lang, Hùng Vương thứ 7 với Bánh Chưng, Bánh Giầy</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đến ngày tế lễ Tiên vương, các hoàng tử đem tới đủ các món ngon vật lạ, không thiếu thứ gì. Người dân các nơi nô nức về Phong Châu dự hội. Đúng lúc mặt trời mọc, Vua Hùng đi kiệu đến làm lễ. Sau khi nếm tất cả các món sơn hào hải vị, nem công, chả phượng, tay gấu, gan tê vua rất ngạc nhiên khi nếm thử món bánh một vuông một tròn mà Lang Liêu dâng lễ, thấy ngon miệng không chán. Vua cho đòi Lang Liêu tới hỏi cách làm ra hai món bánh này. Lang Liêu đem giấc mộng thuật lại. Vua tấm tắc khen hồi lâu, hai thứ bánh này quả là đặc biệt, bày tỏ được lòng hiếu thảo của con cháu tôn kính ông bà tổ tiên như Đất Trời. Trưa hôm ấy Hùng Vương trịnh trọng tuyên bố, hoàng tử thứ 18 là người dâng lễ vật vừa ý vua nhất. Vua bèn truyền ngôi cho Lang Liêu, 21 người con còn lại đều được chia giữ các nơi, trấn thủ những vùng núi non hiểm trở.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Như vậy, món ăn quý nhất lại là món ăn mộc mạc, giản dị mà đong đầy ý nghĩa. Lang Liêu được thần chỉ dẫn nhờ lòng thành cảm động trời xanh, và chàng cũng tự tay mình thực hiện, tìm tòi, sáng tạo để biến lời chỉ dẫn thành món bánh ngon lành. Bánh Chưng xanh vuông vắn như mảnh đất quê hương, ôm trọn cỏ cây muông thú, nuôi dưỡng cho vạn vật, vị mặn mà như lòng biết ơn với tạo hoá. Bánh Giầy tròn đầy như bầu trời rộng lớn, trắng trong, thuần khiết, ngọt ngào như tấm lòng hiếu thảo của cháu con. Bánh được làm từ hạt gạo, hạt đỗ, thịt thà, gia vị sẵn có trong nhà mà bất kỳ ai đều có thể làm được.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lang Liêu lên làm vua tức Hùng Chiêu Vương, mở ra vương triều Hùng Vương thứ 7. Cũng từ đấy thành tục lệ hàng năm, mỗi khi Tết đến xuân về người người nhà nhà đều làm bánh Chưng, bánh Giày để thờ cúng tổ tiên.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Người vợ Thánh mẫu Tây Thiên </i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tương truyền thời đó ở vùng núi Tam Đảo có người con gái tên là Lăng Thị Tiêu xinh đẹp nết na, vừa có tài thơ phú lại có tài binh cơ, võ nghệ xuất chúng. Khi giặc Ân tràn sang cướp phá nước ta, Vua Hùng cho sứ giả truyền loa kêu gọi nhân dân cùng chống giặc. Nàng Tiêu cũng xin gia nhập đội quân cứu nước. Chiến thắng&nbsp; giặc Ân, đất nước thái bình, Hùng Chiêu Vương đem lòng cảm mến đã kết duyên cùng nàng và lập làm chính phi. Sau khi mất, nàng được tôn là Bà chúa Thượng Ngàn của núi rừng Tam Đảo, Đệ Nhất Tây Thiên Thánh mẫu. Các triều đại từ Đinh, Lý, Trần, Lê đều có sắc phong bà là Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Tối Linh Đại Vương&nbsp;Thượng Đẳng Phúc Thần, được nhân dân cả nước tôn vinh, kính trọng và lập đền thờ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp;&nbsp;<i>(Nguồn tư liệu: Wikipedia, Internet)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/tien-dung-cong-chua-%E2%80%9Cba-to%E2%80%9D-nghe-buon"><div class="link-title">TIÊN DUNG CÔNG CHÚA: “BÀ TỔ” NGHỀ BUÔN</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>