ANH TƯ NGUYÊN PHI: KHI XUẤT THÂN TRỞ THÀNH RÀO CẢN

Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích

Tháng giêng năm 1370, Trần Nghệ Tông truy tôn mẹ mình tức Anh Tư Nguyên phi làm Minh Từ Hoàng thái phi. Lệ các triều trước, hoàng phi có con được làm vua thì sau khi mất sẽ được truy phong làm Hoàng hậu và Hoàng thái hậu. Chẳng hạn như mẹ sinh của vua Trần Minh Tông (tức Huy Tư Hoàng phi) sau khi mất được truy tôn là Chiêu Từ Hoàng hậu và Chiêu Từ Hoàng thái hậu. Nhưng Anh Tư Nguyên phi mặc dù có hai con trai đều làm vua lại chỉ được truy tôn là Hoàng thái phi. Điều này cho thấy trong hoàng tộc họ Trần vẫn có sự phân biệt giữa hậu phi nội tộc và ngoại tộc. Có lẽ bởi Anh Tư Nguyên phi không mang họ Trần nên triều thần chỉ truy tôn bà là Hoàng thái phi. Song cách vua Trần Nghệ Tông dùng tôn hiệu là “Minh Từ” cho mẹ mình, tương đồng với miếu hiệu “Minh Tông” của vua cha đã ẩn chứa trong đó tấm lòng trân quý, hiếu thảo của người con và sự tôn vinh cho cuộc hôn nhân, cho chuyện tình của cha mẹ.

21. Anh Tu Nguyen phi.jpg

Vua Trần Minh Tông được sử sách ca ngợi là vị vua anh minh lỗi lạc trong thời kỳ phong kiến nước ta. Triều đại của Minh Tông là thời kỳ thái bình thịnh trị và thời gian ông tại vị cũng là những năm tháng huy hoàng cuối cùng của triều đại Đông A. Sau khi Trần Minh Tông băng hà, cơ nghiệp họ Trần dần dần nghiêng ngả. Ông cũng là vị vua nhà Trần duy nhất có đến bốn người con trở thành Hoàng đế: Hiến Tông Trần Vượng, Dụ Tông Trần Hạo, Nghệ Tông Trần Phủ và Duệ Tông Trần Kính. Trong bốn người đó có đến hai vua Trần Hiến Tông và Trần Nghệ Tông đều là do Anh Tư Nguyên phi Lê thị sinh ra. Nếu như Trần Minh Tông là vị vua đầu tiên phá lệ truyền ngôi cho Đích trưởng tử của các vua Trần thì Anh Tư Nguyên phi cũng là trường hợp ngoại lệ trong tam cung lục viện. Bà từng là nữ nhân đứng đầu hậu cung mà không mang họ Trần. Song cũng chính xuất thân ngoại tộc đó đã trở thành rào cản, mang tới thị phi và cả những lời thêu dệt đổ oan cho bà.

Đứng đầu hậu cung nhưng không được phong Hậu

Anh Tư Nguyên phi xuất thân là con gái của một viên quan cấp thường họ Lê, mẹ của bà là con gái của Nguyễn Thánh Huấn, giáo thụ (thầy dạy) của vua Trần Nhân Tông khi còn là Thái tử. Không rõ bà nhập cung từ khi nào, chỉ biết bà là người sinh ra Hoàng trưởng tử Trần Vượng cho vua Minh Tông vào năm 1319, rất có thể bà chính là người vợ đầu tiên của Trần Minh Tông. Làm thế nào mà con gái của một viên quan nhỏ lại có cơ hội lọt vào mắt xanh của vị Hoàng đế trẻ tuổi? Người viết đã đặt ra câu hỏi này và mạo muội suy đoán có khả năng bà có họ hàng với mẹ sinh của Hoàng đế tức Huy Tư Hoàng phi (Chiêu Hiến quận chúa, con gái của Trần Bình Trọng). Phần lớn các tư liệu hiện có đều nhận định rằng Trần Bình Trọng chính là Thượng vị hầu Lê Tông con trai của Lý Chiêu Hoàng và Bảo Văn Hầu Lê Phụ Trần, thuộc dòng dõi Lê Đại Hành và được ban quốc tính họ Trần. Thế nên họ hàng bên ngoại của vua Trần Minh Tông đa phần là hậu duệ họ Lê ở Ái Châu (Thanh Hoá). Có thể từ mối liên hệ họ hàng mà Minh Tông Hoàng đế và Anh Tư Nguyên phi sớm có cơ hội gặp gỡ rồi nảy nở tình yêu đôi lứa từ thưở hoa niên. Trong 3 năm Anh Tư liên tiếp sinh hạ cho vua hai hoàng tử (Hoàng trưởng tử Trần Vượng năm 1319 và Hoàng tam tử Trần Phủ năm 1321). Bà được vua phong làm Anh Tư Phu nhân, sau tấn làm Anh Tư Nguyên phi. Tước vị Nguyên phi thời phong kiến vốn dành cho chính thất, nguyên phối của vua (khi chưa phong Hoàng hậu) hoặc là người có danh phận cao nhất, quan trọng nhất đứng đầu bậc phi, chỉ dưới mỗi Hoàng hậu (như Nguyên phi Ỷ Lan, An Toàn Nguyên phi (Đàm Thái hậu), Nguyên phi Trần Thị Dung…). Điều đó cho thấy trong thời gian 10 năm ngôi vị hoàng hậu còn trống (từ 1314 tới 1323) thì Anh Tư Nguyên phi chính là vị phi tần đứng đầu hậu cung và cũng là nữ nhân quan trọng nhất trong lòng Minh Tông Hoàng đế.

Đại Việt sử ký toàn thư chép Anh Tư Nguyên phi là vai cô của Hồ Quý Ly (tức Lê Quý Ly trước khi đổi về họ Hồ). Theo tự thuật của Hồ Nguyên Trừng trong tác phẩm  Nam Ông mộng lục (viết dưới tên Lê Trừng khi làm quan cho nhà Minh) có đoạn “Trừng thái phụ chi ngoại tổ viết: Nguyễn Công”, dịch nghĩa tức ông ngoại của ông nội Lê Trừng là Nguyễn Công - một người hay thơ đời Trầnvị “Nguyễn Công” được nhắc tới ở đây được cho là Nguyễn Thánh Huấn. Như vậy ông nội của Hồ Nguyên Trừng là cháu ngoại của Nguyễn Thánh Huấn, cũng có nghĩa là em ruột của Anh Tư Nguyên phi. Thế thì Hồ Quý Ly là cháu ruột, con của em trai Nguyên phi. Từ đó suy ra Anh Tư Nguyên phi cũng là hậu duệ người họ Hồ làm con nuôi nhà họ Lê vậy.

Thêm một điểm đặc biệt nữa về xuất thân của bà, Anh Tư Nguyên phi còn là em gái cùng mẹ khác cha với Lệ Thánh hoàng hậu. Theo Toàn thư, Lệ Thánh là con của Nguyễn phu nhân với Huệ Vũ Đại vương Trần Quốc Chẩn, còn Anh Tư là con của bà với viên quan người họ Lê. Vì lý do nào đó (người viết phỏng đoán là do sự khắt khe trong quy định hôn nhân nội tộc của họ Trần) mà Nguyễn phu nhân sau khi sinh Huy Thánh công chúa cho Huệ vũ vương Trần Quốc Chẩn đã phải rời xa con gái và kết hôn với vị quan họ Lê, sinh ra Anh Tư Nguyên phi. Rồi cũng vì chính quy định khắt khe ấy mà  Anh Tư đã là Nguyên phi kể cả khi đứng đầu hậu cung, đã sinh cho vua hai hoàng tử nhưng chỉ vì bà không phải người họ Trần nên không được tôn thất ủng hộ để bước lên vị trí mẫu nghi thiên hạ. Sau 10 năm bỏ trống ngôi vị hoàng hậu, dưới sức ép của tôn thất họ Trần, vua Minh Tông đã chấp thuận cuộc hôn nhân chính trị với Huy Thánh công chúa phong làm Lệ Thánh hoàng hậu (người vừa là em họ vừa là “chị vợ” đồng thời từng là phu nhân của chú họ ngài).

Chịu tiếng oan vì “vụ án Trần Quốc Chẩn”

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, “Năm 1328, Minh Tông đã làm vua được 15 năm, tuổi khá cao mà chưa lập được Thái tử. Mặc dù các thứ phi đã sinh được các hoàng tử Trần Vượng, Trần Nguyên Trác, Trần Phủ nhưng Hiến Từ Hoàng hậu vẫn chưa sinh được con trai. Triều đình bấy giờ chia làm hai phái: phe của Trần Quốc Chẩn muốn Minh Tông đợi bằng được đến khi hoàng hậu sinh con trai, rồi mới lập Thái tử. Đây là lệ trước giờ của nhà Trần, vốn không lập con của người khác họ lên ngôi, mà đều lập con của các hoàng hậu, hoàng phi có xuất thân trong hoàng gia, cốt là để tránh họa ngoại thích mà bản thân họ Trần đã dùng khi thay ngôi nhà Lý. Trái lại, phe của Cương Đông Văn Hiến hầu (hậu duệ của Tá thánh Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật) và Thiếu bảo Trần Khắc Chung (thầy dạy vua) ủng hộ lập con của Anh Tư Nguyên phi là Trần Vượng làm thái tử.”  Tới lúc này có lẽ vì việc phong hậu và lập Trữ quân mà mối quan hệ của vua Trần Minh Tông với Quốc phụ Thượng tể Trần Quốc Chẩn- chú ruột đồng thời là cha vợ của vua đã trở thành mâu thuẫn gay gắt, bất đồng trầm trọng. Chính điều này là nguyên nhân cốt lõi gây ra vụ án oan của Trần Quốc Chẩn cùng năm đó.

Toàn thư chép, “Cương Đông Văn Hiến hầu đã đưa 100 lạng vàng cho gia nô của Trần Quốc Chẩn là Trần Phẫu, rồi xúi giục Phẫu tố giác với Minh Tông rằng Quốc Chẩn có ý mưu phản. Ngay lập tức, nhà vua truyền lệnh bắt giam Quốc Chẩn vào chùa Tư Phúc trong hoàng thành Thăng Long, rồi xin ý kiến Trần Khắc Chung về vấn đề này. Khắc Chung đã thuyết phục Minh Tông rằng "bắt hổ thì dễ, thả hổ thì khó". Nghe lời Khắc Chung, Minh Tông truyền bắt Quốc Chẩn phải tuyệt thực. Tháng 3 âm lịch năm 1328, Trần Quốc Chẩn chết, hàng trăm người khác cũng bị bắt vì có liên quan với Quốc Chẩn.” Sang năm sau, ngày 7 tháng 2 âm lịch năm 1329, vua Trần Minh Tông xuống chiếu phong Hoàng trưởng tử Trần Vượng (10 tuổi) làm Thái tử. Đến ngày 15 tháng 3 thì ông nhường ngôi cho Thái tử Vượng. Thái tử lên ngôi Hoàng đế, tức vua Trần Hiến Tông, tự xưng là Triết Hoàng, tôn vua cha làm Thái thượng hoàng. Trong vụ án oan khiên của Trần Quốc Chẩn, nhiều sử gia đời sau đã bỏ qua hoặc xem nhẹ yếu tố chính trị của mâu thuẫn âm ỉ giữa hai phe phái trong triều và mối bất hoà của vua Minh Tông với chú ruột ngày càng lớn, dẫn tới quyết định xử tội vội vàng của nhà vua. Họ dựa vào việc con trai của Anh Tư Nguyên phi được chọn làm Trữ quân (là người hưởng lợi) mà đưa ra giả thuyết rằng chính Nguyên phi là chủ mưu của vụ án vu cho Trần Quốc Chẩn tội mưu phản khiến ông bị xử tử, nhằm tranh đoạt ngôi vị cho con trai. Cá nhân người viết cho rằng giả thuyết này hết sức vô lý và Anh Tư Nguyên phi bị mang tiếng oan trong vụ việc thị phi này. Thứ nhất, nhà Trần cực kỳ chú trọng việc ngăn ngừa nạn ngoại thích và mối hoạ đến từ hậu cung (đến mức cực đoan thành quy định kết hôn nội tộc), nên chắc chắn triệt để thực hiện các biện pháp ngăn chặn việc hậu phi can thiệp triều chính, do đó khó mà có chuyện Anh Tư Nguyên phi ở hậu cung lại câu kết được với mệnh quan triều đình. Thứ hai, nếu Anh Tư Nguyên phi là chủ mưu hại chết cha của Lệ Thánh Hoàng hậu thì sẽ kết thành mối thâm thù đại hận giữa hai bà. Nếu có hận thù lớn như thế thì làm sao có chuyện khi xảy ra sự biến Dương Nhật Lễ, con gái của Lệ Thánh Hoàng hậu là Thiên Ninh công chúa lại kêu gọi tôn thất, đem tư binh phò tá và thuyết phục Trần Nghệ Tông- con trai của Anh Tư Nguyên phi dấy binh lật đổ Nhật Lễ, lấy lại ngôi vua? Rõ ràng mối quan hệ giữa Anh Tư Nguyên phi với Lệ Thánh Hoàng hậu và giữa các con của hai bà rất tốt. Vậy thì mối nghi ngờ kia chỉ là lời thêm thắt, thêu dệt của đời sau mà thôi.

“Lá vàng đưa tiễn lá xanh”

Bản thân Anh Tư Nguyên phi có lẽ không ít lần phải chịu buồn tủi vì xuất thân ngoại tộc của mình. Hẳn bà cũng từng nhiều lần cảm thấy có lỗi, thấy áy náy vì thân thế của mình lại thành trở ngại đối với quá trình lên ngôi của con trai trưởng Trần Hiến Tông. Song nỗi đau lớn nhất cuộc đời bà lại là gặp phải thảm cảnh “lá vàng đưa tiễn lá xanh”. Năm Khai Hựu thứ 13 (1341), ngày 11 tháng 6, vua Trần Hiến Tông đột ngột băng hà khi mới 23 tuổi, lúc dó vua chỉ có một công chúa, chưa có con nối dõi. "Một người mẹ mất con, nước mắt còn nhiều hơn biển cả" có lẽ là câu nói lột tả được gần đúng nỗi đau của bà. Sau khi Trần Hiến Tông qua đời, Thượng hoàng Minh Tông chọn người con thứ dòng đích là Trần Hạo (con của Lê Thánh Hoàng hậu) lên ngôi, tức vua Trần Dụ Tông. Người ta thường nói dấu hiệu cảnh báo một triều đại sắp thoái trào chính là Hoàng đế băng hà khi còn trẻ. Và có lẽ cái chết của vua Trần Hiến Tông cũng là dấu mốc kết thúc giai đoạn hưng thịnh của triều đại Đông A.

Sau khi Thượng hoàng Trần Minh Tông mất năm 1357, vua Trần Dụ Tông tự mình chấp chính nhưng ham mê hưởng lạc, bỏ bê triều chính, ưa dùng nịnh thần, dần dần đẩy triều Trần đến hồi suy vong.

Mùa đông năm 1365, Anh Tư Nguyên phi qua đời, dưới thời vua Trần Dụ Tông.

Mẹ sinh hai vua nhưng không được truy phong “Thái hậu”

Bốn năm sau khi Anh Tư Nguyên phi qua đời, năm 1369 vua Trần Dụ Tông băng hà ở tuổi 34, không con nối dõi. Hiến Từ Hoàng Thái hậu (tức Lệ Thánh Hoàng hậu) đứng ra chọn Trần Nhật Lễ là con của Cung Túc vương Trần Nguyên Dục (con trai lớn của Thái hậu) nối ngôi.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Nhật Lễ chỉ là con nuôi của Cung Túc vương (mẹ Nhật Lễ có thai trước khi làm vợ Trần Nguyên Dục). Nhật Lễ lên ngôi nhưng bỏ bê triều chính, ham mê rượu chè, cho đón cha ruột Dương Khương vào triều giữ chức Lệnh thư gia và có ý đổi sang họ Dương làm các quan trong triều bất bình. Việc này khiến Hiến Từ Thái hậu tỏ ý hối hận chuyện lập Nhật Lễ. Nhật Lễ bèn ngầm đánh thuốc độc giết chết Thái hậu vào tháng 1 năm 1370. Vì biến cố này, tháng 10 năm 1370, đang đêm cha con Cung Tĩnh Vương Trần Nguyên Trác (con trai thứ 2 của vua Trần Minh Tông), chồng và hai con của Thiên Ninh công chúa (con gái vua Minh Tông và Hiến Từ Thái hậu) đem người tôn thất vào thành mưu giết Nhật Lễ nhưng để Nhật Lễ trốn mất. Sáng hôm sau Nhật Lễ chia người đi bắt toàn bộ những người tham gia vụ việc và xử chết.

Cung Định vương Trần Phủ, vì có con gái làm Hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (tức Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là Hữu Tướng quốc Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc thượng hầu Trần Nguyên Đán, Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Tới tháng 12 năm 1370, Nhật Lễ bị phế, tông thất họ Trần tôn Cung Định vương lên ngôi tức vua Trần Nghệ Tông, lúc này vua đã 50 tuổi.

Tháng giêng năm 1370, Trần Nghệ Tông truy tôn mẹ mình tức Anh Tư Nguyên phi làm Minh Từ Hoàng thái phi. Lệ các triều trước, hoàng phi có con được làm vua thì sau khi mất sẽ được truy phong làm Hoàng hậu và Hoàng thái hậu. Chẳng hạn như mẹ sinh của vua Trần Minh Tông (tức Huy Tư Hoàng phi) sau khi mất được truy tôn là Chiêu Từ Hoàng hậu và Chiêu Từ Hoàng thái hậu. Nhưng Anh Tư Nguyên phi mặc dù có hai con trai đều làm vua lại chỉ được truy tôn là Hoàng thái phi. Điều này cho thấy trong hoàng tộc họ Trần vẫn có sự phân biệt giữa hậu phi nội tộc và ngoại tộc. Có lẽ bởi Anh Tư Nguyên phi không mang họ Trần nên triều thần chỉ truy tôn bà là Hoàng thái phi. Song cách vua Trần Nghệ Tông dùng tôn hiệu là “Minh Từ” cho mẹ mình, tương đồng với miếu hiệu “Minh Tông” của vua cha đã ẩn chứa trong đó tấm lòng trân quý, hiếu thảo của người con và sự tôn vinh cho cuộc hôn nhân, cho chuyện tình của cha mẹ.

  (Nguồn tư liệu & Ảnh: Đại Việt sử ký toàn thư, Wikipedia, Internet, Pinterest)

  Đọc thêm:

Trần Minh Tông Trần triều Anh Minh thịnh thế Anh Tư Nguyên phi
Còn lại: 5