
Theo Lĩnh Nam chích quái và các thần tích “Tiên Dung nghe tin vua cha tức giận, sợ không dám trở về nên cùng chồng mở chợ Hà Thám, lập phố sá, đổi chác với dân gian. Dần dần nơi ấy trở thành một ngôi chợ lớn, buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa”. Nếu như đức lang quân của nàng - Chử Đồng Tử được tôn là “Chử Đạo tổ”, ông tổ “tu tiên” thì Mỵ nương Tiên Dung chính là “Bà tổ” nghề buôn bán nước ta vậy. Là công chúa con vua mà lại thành “bà tổ khởi nghiệp” rồi tu đạo thành tiên, chúng ta cùng xem thử một trong những hình mẫu người phụ nữ Việt thời kỳ Văn Lang như thế nào nhé!
SINH RA Ở VẠCH ĐÍCH
“Hùng Vương thứ 18 (tức nhành Hùng Duệ Vương) đời thứ 3 có một nàng Mỵ nương (con gái vua gọi là Mỵ nương, con trai gọi là Quan lang) tên là Tiên Dung, nhan sắc tuyệt trần, đã đến tuổi trưởng thành mà không chịu lấy chồng, chỉ thích ngao du sơn thủy. Hùng Vương yêu con gái, chiều theo ý nàng. Mỗi năm khoảng tháng hai, tháng ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh sông nước, vui chơi quên cả ngày về.”
Có thể thấy Tiên Dung quả thực sinh ra ở vạch đích, lớn lên trong êm đềm, được yêu thương hết mực. Là công chúa cành vàng lá ngọc, đi đâu cũng có kẻ hầu người hạ, đến tuổi cập kê nhưng không chịu lấy chồng vẫn được cha chiều ý. Nàng may mắn hơn rất nhiều công chúa khác phải chấp nhận cuộc hôn nhân chính trị để giúp vua cha, vua anh, vua em giữ vững ngai vàng. Nàng tốt số hơn bao nhiêu cô gái khác phải làm khuê nữ loanh quanh trong vườn nhà góc bếp chẳng bao giờ được đi xa. Nàng cũng chọn một lối sống khác, không chịu lấy chồng dù đã đến tuổi trưởng thành. Để nàng được ung dung tự tại, tự do như thế hẳn là vua cha yêu thương nàng rất nhiều, nhiều tới độ có thể bỏ qua mọi phong tục tập quán. Và ngược lại, để được vua cha yêu thương đến vậy, tin tưởng cho thân gái một mình đi xa như thế chắc chắn Tiên Dung là người con gái không chỉ có sắc mà còn có tài, có tình yêu thương, có phẩm chất, đức hạnh hơn người.
Ý TRỜI HAY LÒNG NGƯỜI?
“Vào một ngày đẹp trời Tiên Dung cho thuyền dạo chơi dọc sông Hồng, đi qua vùng Chử Xá (nay là Gia Lâm, Hà Nội). Lúc đó Chử Đồng Tử (người đàn ông không một mảnh khố) đang ngâm mình bắt cá dưới sông, nhìn thấy từ xa đoàn thuyền dong buồm đi tới, sợ quá chàng liền chạy lên bờ nhằm khóm lau vùi mình xuống cát. Ngắm phong cảnh hữu tình, Tiên Dung liền cho dừng thuyền lại, sai thị nữ lên bờ quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Nước xối dần để lộ thân hình Chử Đồng Tử dưới cát. Chử Đồng Tử sợ hãi định chạy trốn. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, thấy chàng hiếu thảo, bản tính thật thà, ngẫm là duyên trời định bèn nói: "Ta và chàng tình cờ gặp nhau thế này, âu cũng là nhân duyên do trời sắp đặt", liền đó nàng truyền mang quần áo cho Chử Đồng Tử và cùng chàng làm lễ kết duyên ngay trên thuyền.”
Người viết đặt ra câu hỏi nếu gặp phải tình huống như vậy một công chúa có thể xử lý thường dân kia thế nào? “Tên dân đen láo xược, dám khi quân phạm thượng với công chúa lá ngọc cành vàng. Người đâu lôi ra chém” =))) Có thể lắm chứ. Cứ xử trảm bịt đầu mối, diệt trừ hậu hoạ là xong. Đằng nào thì đó cũng chỉ là một tên dân đen nghèo hèn đến độ cái khố cũng chẳng có. Đằng nào thì Tiên Dung vốn không muốn lấy chồng. Đằng nào thì cũng chỉ có vài người biết việc này mà đều là người thân tín của công chúa, việc bịt miệng không hề khó. Chẳng phải Chử Đồng Tử cũng xác định tư tưởng, đã nghĩ tới cái chết nên mới sợ hãi định chạy trốn đó thôi.
Thế nhưng việc dễ không muốn lại đi chọn việc khó mà làm. Công chúa lá ngọc cành vàng chủ động ngỏ ý kết duyên với chàng trai không quen biết, không “nhà mặt phố bố làm to”, không tài sản phòng thân, không sính lễ cưới hỏi. Ừ cứ cho là có thể bởi tình yêu sét đánh đi nhưng một cô gái như Tiên Dung lớn lên trong giàu sang, đã từng ngao du khắp chốn không phải người không hiểu sự đời. Thì cứ cho là “duyên trời sắp đặt” đi, nhưng thân là Mỵ nương con vua, được giáo dục đàng hoàng tử tế sao nàng không biết vua cha, gia đình sẽ nhìn nhận thế nào mà lại “kết duyên ngay trên thuyền”. Lĩnh Nam chích quái có đoạn “Hùng Vương giận bảo: “Tiên Dung không biết trọng danh tiết, không biết tiếc tiền của, đi chơi giữa đường lại hạ giá với người nghèo, còn mặt mũi nào mà thấy ta nữa. Từ nay mặc kệ nó, không cho về kinh nữa.” Nàng không phải không biết hệ quả của quyết định đó, tại sao lại chọn thế khó cho mình? Người viết mạo muội nghĩ có lẽ là bởi tình thương người và lòng trắc ẩn, bởi nàng thật sự coi trọng tính mạng người dân thường cũng quý như tầng lớp quý tộc, bởi nàng cảm động trước lòng hiếu thảo của Chử Đồng Tử với cha, cảm thương cho cảnh ngộ nghèo hèn khốn khó của chàng. Trong tình yêu đôi lứa ẩn chứa cả tình thương người, lòng nhân ái và vị tha vậy. Bởi thế mối tình của Tiên Dung và Chử Đồng Tử có thể gọi là ý trời se duyên gặp gỡ, lòng người định cuộc hôn nhân. Và người quyết định ở đây là đàng gái, là Mỵ nương Tiên Dung. Nàng vốn tâm niệm không định lấy chồng, nhưng trong tình huống éo le như vậy, nàng chọn lấy chồng vừa là tin vào ý trời vừa là muốn cho chàng trai kia một con đường sống. Lòng nhân ái của Tiên Dung còn được thể hiện rõ khi sau này nàng lập chợ buôn bán không chỉ xây dựng kinh tế cho gia đình mình mà còn giúp người dân có cơ hội kiếm sống tốt hơn, hay khi thành đạo, nàng cùng chồng chu du khắp nơi truyền đạo cho người, dùng y thuật cứu nhân độ thế.
KHỞI NGHIỆP TỪ HAI BÀN TAY TRẮNG
Đúng như dự đoán của tất cả mọi người, Hùng Vương nghe tin Tiên Dung tự ý lấy Chử Đồng Tử thì nổi giận lôi đình. Sao không giận cho được khi “ngoan xinh yêu” của cha mười mấy năm nâng niu chiều chuộng lại không thèm hỏi cha một câu báo cha một lời mà tự ý kết hôn. Sao không đau cho được khi mà bao mối tốt ngon lành cành đào vua cha chọn thì nàng không nghe, còn bảo không định lấy chồng, giờ thì hay chưa lại đi lấy kẻ nghèo hèn, bần cùng nhất thiên hạ. Đã thế thì đừng có vác mặt về đây nữa, đừng hòng động đến bất cứ tiền tài nào của ta, từ rày ta không có đứa con này, Tiên Dung không còn là Mỵ nương nữa. Thế là nàng công chúa của chúng ta từ vạch đích quay về điểm xuất phát, mất đi tước vị hoàng tộc, không có tài sản, không còn gia đình người thân, chỉ được một tấm chồng cũng vô sản nốt. Kể cũng cám cảnh, nghe cũng thảm thương. Nhưng Tiên Dung là người con gái thật sự dũng cảm, dám làm dám chịu, dám quyết định hôn nhân thì dám đồng cam cộng khổ với bạn đời, dám làm trái ý vua cha thì dám tự mình đi lên từ hai bàn tay trắng. Quả là tinh thần mạnh mẽ, bản lĩnh kiên cường của “bà tổ khởi nghiệp”. =)) Bởi chàng ở vùng sông nước thạo nghề đánh cá, bởi nàng sống ở kinh đô Phong Châu vốn biết trồng dâu nuôi tằm dệt vải, thế là hai vợ chồng chăm chỉ lao động tạo dựng cuộc sống. Xuất thân là công chúa vùng cao lại từng đi khắp nơi theo đường sông nước, Tiên Dung nhận ra nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các vùng miền để sản vật nơi này đều có thể tới tay người sống ở nơi khác, khi có chút vốn liếng nàng cùng chồng mở chợ rồi lập phố sá giao thương, mở ra nghề buôn bán cho người dân quanh vùng. Trời chẳng phụ lòng người dày công dốc sức, phố chợ của vợ chồng nàng ngày càng sầm uất, thịnh vượng, giao thương cả trong nước và ngoại quốc.
“Một hôm có khách buôn đến nói với Tiên Dung rủ chung mối làm ăn, đem vàng cùng ra nước ngoài mua hàng về bán sẽ có lãi to.” Với trực giác nhạy bén của người làm kinh doanh, nàng nhận ra cơ hội tốt liền bảo chồng cùng hùn vốn với họ. “Chử Đồng Tử bèn theo khách buôn đi khắp ngược xuôi. Một hôm qua ngọn núi giữa biển tên Quỳnh Viên (nay là núi Nam Giới thuộc Hà Tĩnh), thuyền ghé lấy nước ngọt. Trên núi còn có ngôi cổ tự, Chử Đồng Tử trèo lên am trên núi và gặp một đạo sĩ tên Phật Quang. Chàng bèn giao tiền cho khách buôn đi mua hàng, còn mình thì ở lại học phép thuật. Sau thuyền quay lại đón, Chử Đồng Tử đã tu thành đạo, Phật Quang tặng chàng một cây gậy và một chiếc nón lá, dụ rằng đây là vật thần thông. Về đến nhà Chử Đồng Tử truyền đạo lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán cùng chồng đi khắp nơi cứu nhân độ thế.”
Có thể thấy, Tiên Dung không chỉ là người phụ nữ khéo vun vén, một “doanh nhân nhạy bén trên thương trường” mà cũng là người vợ hậu phương vững chắc cho chồng. Nàng lấy chàng không một tài sản, không của hồi môn, nàng cùng chàng bảo nhau làm ăn gây dựng cuộc sống. Nàng khuyên chàng ra biển lớn làm giàu và nàng tin tưởng con đường chàng chọn, theo chàng học đạo tu tiên thay vì tiếp tục kiếm tiền. Nhờ thế mà Tiên Dung giác ngộ. Khi hiểu thấu đạo trời, hai vợ chồng từ bỏ phố chợ của mình, đem tài sản chia cho dân chúng rồi cùng nhau ngao du hành đạo, cứu giúp chúng sinh. Trước kia, nàng mở ra nghề buôn bán giúp bản thân và dân chúng gia tăng tài sản, có cuộc sống tốt hơn. Sau khi thành đạo, nàng không còn dính mắc vào tiền tài danh vọng, sẵn sàng buông nghề để làm việc thiện, việc có ý nghĩa, truyền đạo cứu đời, bốc thuốc cứu mạng giúp cho nhiều người hơn nữa. Khi từ bỏ mọi thứ ngoài thân lại là lúc có được tất cả. “Ngày nọ, trong lúc trời tối, người đã thấm mệt, xung quanh hiu quạnh không nhà cửa, hai vợ chồng bèn cầm gậy che nón nằm dưới mà nghỉ. Nửa đêm chỗ ấy nổi lên thành quách, cung điện bằng châu ngọc, kho tàng đầy đủ của cải, không thiếu một thứ gì, lại thêm tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ lính hầu xúm xít quanh hai vợ chồng. Sáng hôm sau, dân chúng quanh vùng kinh ngạc bèn dâng hương hoa quả ngọt đến xin làm bầy tôi. Từ đấy chỗ đó phồn thịnh, sung túc như một nước riêng.” Là bởi phúc đức của hai vợ chồng đã tới ngày hái quả, hai người từ bỏ gia sản từ nghề buôn bán lại càng sung túc, thịnh vượng hơn xưa. Khi nghèo khó hay lúc giàu sang vợ chồng nàng vẫn không quên hành đạo, tiếp tục tục giúp đời cứu người.
ĐẠO HIẾU VÀ TỪ BI
Có thể nói Tiên Dung cùng chồng cứu đời độ thế chẳng nợ người dân, chỉ nợ một ân tình, một chữ hiếu với vua cha của nàng. Thế nên biến cố cần đến sẽ phải đến. “Nghe tin vợ chồng Tiên Dung dùng phép lạ dựng thành quách, Hùng Vương cho là có ý tạo phản, liền xuất binh đi đánh dẹp. Quân nhà vua đến, người dưới xin ra chống cự nhưng Tiên Dung chỉ cười và từ chối không kháng lệnh cha mình, chờ chịu tội. Trời tối, quân nhà vua đóng ở bãi đất cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, thành trì, cung điện và cả bầy tôi của Tiên Dung và Chử Đồng Tử phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ sụp xuống thành một cái đầm rất lớn. Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, và gọi đầm đó là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm), bãi cát đó là Bãi Tự Nhiên hoặc Bãi Màn Trù và chợ đó là Hà Thị.”
Nếu như câu chuyện mở đầu bằng điểm sáng về lòng hiếu thảo của Chử Đồng Tử với người cha Chử Cù Vân, thì truyền thuyết khép lại vụt sáng ở việc Tiên Dung tròn chữ hiếu với vua Hùng. Cha không cho về, nàng chẳng dám về. Cha cho là phản loạn sai quân đi dẹp, nàng không kháng mệnh cha mà khoanh tay chờ chết. “Chuyện này cũng không phải tự ta làm ra, cũng là trời run rủi. Ta đâu dám cự lại phụ vương. Sống chết nhờ trời, dẫu ta có bị phụ vương giết cũng không dám oán hận.” Nàng tự thấy mình có lỗi khi làm cha tức giận mà từ mặt, nàng thấy mình có tội khi khiến cha phiền não, âu lo mà sai quân tiêu diệt. Nàng cũng không muốn vì mình mà liên luỵ sinh mệnh khác, khiến chiến tranh xảy ra, bao người rơi cảnh lầm than, sinh ly tử biệt. Nàng chọn quy hàng, nghe theo mệnh trời và bất bạo động. Trong lòng hiếu thảo với cha có cả đức hiếu sinh với dân chúng. Tiên Dung và Chử Đồng Tử đã sống vẹn toàn đạo hiếu và lòng từ bi. Bởi thế mà vợ chồng nàng thăng thiên, trở thành thần bảo hộ. Thành quách đến từ phép lạ cũng biến mất một cách kỳ lạ, chỉ để lại vết tích là đầm Nhất Dạ cùng truyền thuyết lưu danh muôn đời.
Có thể nói Tiên Dung công chúa là một trong những hình tượng hiếm hoi về người phụ nữ Việt xưa được khắc họa rõ nét trong thần tích. Từ truyền thuyết về nàng, ta càng thêm yêu, thêm tự hào, thêm kính phục và ngưỡng mộ người phụ nữ tự do tự tại, dám là chính mình, dám chịu trách nhiệm, đảm đang tháo vát, chu toàn việc nhà lăn xả việc nước, vẹn toàn đạo hiếu chung thuỷ chữ tình và giàu lòng nhân ái, từ bi, trắc ẩn. Hình tượng Mỵ nương Tiên Dung vừa phản ánh hiện thực và có lẽ cả ẩn chứa ước mơ của người phụ nữ Việt cổ. Phụ nữ thời hiện đại ở thế hệ con cháu như chúng ta còn phải học “bà tổ nghề buôn” dài dài ha.😊
1 Bình luận