LỊCH VÀ SỬ
9 bài viết
0 bình luận
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Từ mảnh đất Nghệ An hiếu học và giàu lòng yêu nước, ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh trai của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm bộc lộ chí khí nho phong cùng nỗi trăn trở về vận mệnh dân tộc. Với mong muốn các con sau này thành đạt, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã đặt tên mới cho hai anh em là Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành. Tên gọi ấy không chỉ là danh xưng mà còn là biểu tượng cho một đời vì nước, vì dân.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/ba838b3bc7ed6b61c1cdec830dfda5199933170219ff180b4aadc1314a633400.png"alt="Avatar.png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày 28/7/1940 chính quyền tay sai kết án ông vì hoạt động truyền bá tinh thần yêu nước và võ thuật cho con em trong vùng. Bản án hai tháng tù và 20 đồng bạc Đông Dương bị kéo dài tới một năm nhằm dập tắt đi khát vọng tự do. Nhưng ngục tù không làm ông chùn bước. Trở về nhà, Nguyễn Tất Đạt tiếp tục hoạt động cách mạng cùng những người bạn đồng tâm. Năm 1946, khi biết em trai mình là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông đã ra Hà Nội để tìm Bác. Sợ em không nhận ra mình, ông nhờ chú cảnh vệ gửi Người một tờ giấy nhỏ chỉ ghi vỏn vẹn ba từ: "Đạt thăm Thành". Cầm chặt mảnh giấy trong tay, lòng Bác như nghẹn lại. Cuộc gặp sau đó được diễn ra trong không khí xúc động kèo dài 1 giờ. Nhưng chẳng ai ngờ rằng, đó cũng chính là lần hội ngộ cuối cùng của hai anh em sau hơn 30 năm xa cách. Vì chỉ sau đó 4 năm, anh trai Bác lâm bệnh nặng và ra đi vĩnh viễn ở tuổi 62. Cuộc đời ông Nguyễn Sinh Khiêm là biểu tượng của lòng kiên trung, thanh bạch và không màng danh vọng. Với mỗi người con đất Việt, cái tên Nguyễn Tất Đạt ấy sẽ mãi là điểm tựa tinh thần cho thế hệ mai sau học tập và noi theo.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 7/1970, trời Sài Gòn nóng hầm hập. Trong một căn phòng nhỏ của khách sạn thuộc trung tâm thành phố, người thanh niên Mỹ tên Tom Harkin lặng im nghe câu chuyện từ một cựu tù Côn Đảo. Người thanh niên Việt Nam ấy chỉ mới ngoài 20 nhưng ánh mắt đã chất chứa nỗi niềm nhiều hơn tuổi đời. Anh kể: “Tôi bị giam 13 tháng ở Côn Sơn. Phần lớn thời gian là trong những chuồng cọp. Ở đó tối lắm, nóng lắm. Mùi vôi nồng lên bỏng cả mắt. Có khi chúng tôi phải bắt thằn lằn để ăn chỉ để không chết đói”.Tom Harkin lúc ấy là một trợ lý quốc hội trẻ tuổi, đến Việt Nam cùng đoàn nghị sĩ Mỹ. Anh không phải nhà báo cũng chẳng phải nhà hoạt động nhân quyền. Nhưng cuộc gặp gỡ ấy đã thay đổi cuộc đời Tom. Người cựu tù nhân không chỉ kể chuyện mà còn vẽ lại một tấm bản đồ. Từng nét bút nguệch ngoạc dẫn về một địa điểm nằm sau khu vườn rau, nơi mà theo lời anh: “Nếu không có ai chỉ thì các ông không bao giờ tìm ra được”.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vài ngày sau, Tom Harkin cùng Don Luce lên đường ra Côn Sơn. Chuyến đi là một phần trong chương trình thị sát của Ủy ban Quốc hội Hoa Kỳ tại Việt Nam. Trong số các nghị sĩ tham gia, chỉ có William R. Anderson và Augustus F. Hawkins bày tỏ sự quan tâm đến những tin đồn về chuồng cọp, còn lại đều tỏ ra thờ ơ. Luce với vốn tiếng Việt thông thạo, đi cùng để làm phiên dịch nhưng đồng thời cũng là người dẫn đường theo bản đồ do cựu tù vẽ lại. Tom sau này kể lại: “Chúng tôi được dẫn đi thăm một số khu nhà tù. Tất cả đều sạch không tì vết như được chuẩn bị từ trước. Nhưng Luce và tôi thì biết thứ cần thấy không nằm ở đó”. Giữa trưa, cả nhóm dừng lại gần một khu vườn. Tom thì thầm với nghị sĩ Hawkins: “Tôi nghĩ chỗ đó là cửa vào”. Ngay sau đó, ông Hawkins lớn tiếng hỏi viên quản giáo về rau trong vườn. Câu hỏi tưởng chừng vu vơ ấy lại mở ra một cơ hội giúp họ tiến gần tới cánh cửa xám không bảng hiệu. Tom hỏi viên Đại tá Việt Nam tên Vệ: “Sau cánh cửa là gì?” Ông ta chỉ trả lời lạnh lùng: “Khu vực riêng. Không được vào”.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/9ed20ff09305ba64398a0257392b1026207f9f93ea14340dd73fe41dc253ad0b.png"alt="Avatar (2).png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhưng rồi điều không ai ngờ đã xảy ra. Tom nhớ lại: “Tôi nghe tiếng lanh canh. Cánh cửa tự mở. Có lẽ lính gác tưởng có lệnh từ cấp trên. Trước khi ai kịp ngăn, tôi và nghị sĩ Hawkins đã bước thẳng vào trong”. Những gì nhìn thấy sau đó đã vượt xa khỏi sức tưởng tượng của cả nhóm.Bên dưới những thanh sắt rỉ sét là hàng trăm con người. Họ ngồi co cụm trong những ô chuồng chật hẹp, chân tay bị xích. Không khí đặc quánh mùi vôi, mùi phân và mùi mồ hôi lâu ngày. Tom nhanh chóng giơ máy ảnh lên. Viên Đại tá thấy vậy liền hốt hoảng đòi tịch thu cuốn phim nhưng bị anh từ chối. Sau đó, Tom quay sang nói với một nghị sĩ Mỹ: “Tôi có một trách nhiệm lớn hơn, với 500 con người bị giam cầm trong những cái chuồng đó, tôi không thể giữ im lặng”. Một người tù cất tiếng yếu ớt từ góc chuồng: “Tôi là nhà sư. Tôi đã lên tiếng vì hòa bình năm 1966. Tôi bị giam ở đây không vì tội ác mà vì lời nói”. Một cô gái chừng 15 tuổi, gầy guộc như cành củi khô, không nói gì, chỉ nhìn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vài tuần sau, loạt ảnh của Tom Harkin xuất hiện trên tạp chí Life khiến cả nước Mỹ phải bàng hoàng. Một cố vấn Mỹ từng mô tả nhà tù Côn Sơn là “trại sinh hoạt của hướng đạo sinh” giờ cũng im lặng, không còn gì để biện hộ. Sự thật về chuồng cọp Côn Đảo không đến từ một cuộc thanh tra chính thức. Nó đến từ một cuộc gặp gỡ tình cờ, một tấm bản đồ vẽ tay, một cánh cửa mở nhầm và một con người đã dám bấm máy đúng lúc.&nbsp;&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Đầu thế kỷ 20, khi phương Tây vẫn còn tranh cãi về quyền bầu cử của nữ giới thì ở một xứ sở xa xôi mang tên An Nam, hình ảnh người phụ nữ đã sớm hiện lên với tư cách là một điểm tựa không thể thiếu trong đời sống gia đình và đạo lý xã hội.Gabrielle M. Vassal, một phụ nữ Anh theo chồng đến sống tại Nha Trang đã ghi chép lại những quan sát chân thực về người phụ nữ Việt trong tác phẩm On &amp; Off Duty in Annam (1910). Đối với bà, nếu muốn hiểu đạo đức của người An Nam, chỉ cần nhìn vào cách họ xây dựng gia đình, đặc biệt là cách họ đối xử với người phụ nữ trong chính ngôi nhà của mình.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/5154e1e24cd02e9f8e7300af43196a77d0c9b24e83b7132f263f729a0a3a7f71.png"alt="Avatar (2).png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không bị bó chân như phụ nữ Trung Hoa, cũng không bị cấm cung hay hoàn toàn vô hình trước pháp luật như nhiều nơi khác, người phụ nữ An Nam sống trong một hệ thống lễ nghi chặt chẽ nhưng không bị xóa nhòa khỏi vị trí xã hội. Trong gia đình, người vợ hợp pháp được gọi là: “vợ chánh”. Họ là người có quyền điều hành mọi sinh hoạt nội bộ và là cái tên song hành trong mọi giao dịch tài sản của chồng. Khi chồng mất, họ cũng là người thừa kế trực tiếp. Nếu không sinh được con trai, người "vợ chánh" còn được quyền nhận con nuôi để bảo toàn dòng họ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Với Gabrielle, điều này thật đáng kinh ngạc. Bà viết: "Có thể nhận thấy rằng người đàn bà An Nam có địa vị xã hội ở mức độ cao. Nhiều nền văn minh Tây phương đã không thừa nhận những quyền lợi của phụ nữ ở mức độ cao hơn thế." Đó không phải là một lời tâng bốc mà là sự công nhận đến từ một phụ nữ phương Tây từng sống trong thời đại mà chính bà cũng chịu nhiều giới hạn vì giới tính.Sự tôn trọng ấy không chỉ đến từ luật pháp mà còn bắt nguồn từ đạo lý thờ cúng tổ tiên. Đây là nền tảng khiến cho vai trò của người mẹ, người vợ và người con gái trở nên thiêng liêng. Gia đình An Nam được tổ chức theo trật tự, quy củ nhưng đầy cảm tính nhân văn. Người đàn bà có thể không bước ra chính sự nhưng họ là hậu phương, là người nuôi dưỡng phẩm chất và sự hiếu hạnh trong từng thế hệ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không ít bà mẹ từng làm nhiếp chính, không ít người vợ nổi lên bất chấp thiên tai hay biến động. Trong văn học và sân khấu, hình ảnh người phụ nữ gánh vác việc lớn, tự tay cứu chồng hoặc báo thù cho cha là chuyện phổ biến. Và trong đời thực, Hai Bà Trưng từng khởi nghĩa, giành lại đất nước để rồi trở thành hai nữ anh hùng được tạc tượng cho đến ngày nay.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nếu phương Tây tự hào vì những phong trào nữ quyền hiện đại thì Gabrielle lại tìm thấy một giá trị nữ quyền rất Á Đông: "Lặng thầm, bền vững, bén rễ trong lòng gia đình và được nâng niu như một phần của nền đạo lý dân tộc".&nbsp;&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Trong đời sống tinh thần của người Việt xưa, săn bắn không phải là thú tiêu khiển mà là một hành vi thiết yếu để sinh tồn. Người Việt không xem việc săn thú rừng là niềm vui. Nó như một giải pháp để bảo vệ mùa màng và chống lại hiểm họa từ rừng thiêng. Khác với giới quý tộc châu Âu hay vua chúa phương Bắc vốn coi săn bắn là nghi lễ quyền uy, người Việt không có tục lệ đó. Vua Tự Đức nếu có đi săn cũng chỉ quanh quẩn bắn chim trong vườn ngự.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/910f08b7eb62650581e42dbd43140017b595c1106202d3187463805a6e9ff9be.png"alt="Avatar (2).png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tục săn hổ chỉ thực sự xuất hiện từ đầu thế kỷ XX khi người Pháp đem văn hóa săn thú vào Đông Dương. Lúc này, hổ trở thành đối tượng của những cuộc đi săn nhằm biểu dương thanh thế. Vua Bảo Đại từng là người tiên phong trong thú chơi này. Về sau, Ngô Đình Nhu cũng nổi lên là tay săn có tiếng, từng hạ hơn chục con hổ tại vùng rừng Đà Lạt. Những cuộc đi săn như vậy thường chỉ dành cho tầng lớp có quyền lực, vũ khí hiện đại và điều kiện tổ chức quy mô. Tuy nhiên, trong dân gian, hổ không chỉ là nỗi ám ảnh mà còn là một biểu tượng đầy huyền bí. Tại Bình Định, bà Trần Thị Quyền từng một mình chém chết hổ để cứu mẹ, được triều đình phong danh liệt nữ. Miền núi phía Bắc có tục thờ thần hổ, xem hổ như linh vật canh giữ rừng già. Họ chỉ săn hổ khi chúng phạm tội với người và mỗi cuộc săn ấy đều cần lễ chuộc mạng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở Tây Nguyên, người Ê-Đê tin rằng hổ có linh hồn và là hiện thân của thần rừng. Khi lỡ tay hạ sát hổ, họ phải tổ chức nghi lễ đền mạng và coi đó là một vụ ngộ sát giữa hai sinh thể ngang giá. Mỗi cái chết của 1 con hổ có thể được định giá bằng 15 con trâu. Từ sử liệu, hổ hiện lên vừa đáng sợ vừa thiêng liêng. Trong ký ức của người Việt xưa, hổ không chỉ là thú dữ mà còn là biểu tượng của quyền lực, ranh giới giữa con người và thiên nhiên. Những cuộc săn hổ của thế kỷ trước giờ chỉ còn là chuyện kể nhưng dấu ấn của nó vẫn in đậm trong văn hóa và tâm thức dân tộc.&nbsp;&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Giữa đại ngàn Tây Nguyên, ngôi nhà dài của người Ê-đê không chỉ là nơi sinh sống mà còn là biểu tượng văn hóa mang đậm dấu ấn của chế độ mẫu hệ và đời sống tâm linh đặc sắc. Truyền thuyết về “cầu thang đực, cầu thang cái” chính là minh chứng sống động cho sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và triết lý nhân sinh của cộng đồng này.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/1718875b08a0da07d77348591c342c51796bec9758aeadfb60f12493718b40d0.jpg"alt="unnamed.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhà dài Ê-đê không có độ dài cố định. Cứ mỗi khi con gái trong nhà cưới chồng, người rể sẽ về ở chung. Gia đình lại cơi nới thêm một gian nhà nối tiếp vào gian cũ. Cứ thế, nhà càng dài càng thể hiện sự lớn mạnh của dòng tộc.Trước hiên nhà có hai cầu thang chính bằng gỗ quý, được đẽo thủ công. Một bên dành cho đàn ông trong nhà đi lại, gọi là cầu thang đực. Bên còn lại là cầu thang cái, dành cho phụ nữ. Đầu cầu thang cái được chạm khắc hình lưỡi liềm và hai bầu ngực căng tròn, tượng trưng cho quyền lực và vai trò trung tâm của người phụ nữ trong gia đình. Khi có khách quý đến, bất kể là nam hay nữ, họ đều được mời bước lên bằng lối cầu thang cái. Đôi tay khách chạm vào bầu sữa như một hành động thể hiện sự tôn trọng, biết ơn người mẹ và cũng là lời nhắc nhở con cháu sống đẹp như dòng sữa đã nuôi mình khôn lớn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Bên trong, nhà chia làm hai phần. Phía trước là không gian sinh hoạt chung, nơi đặt ghế chủ, ghế khách, bếp lửa và những hiện vật quý. Phía sau là chỗ ở của các đôi vợ chồng và bếp nấu ăn chung. Trên các xà nhà, người Ê-đê khắc những linh vật như rồng, rùa, voi, kỳ đà mang ý nghĩa cầu may, trừ tà và phản ánh tín ngưỡng phồn thực. Đặc biệt, chỉ những gia đình từng nuôi voi thật mới được khắc hình voi trên xà nhà như một cách khẳng định vị thế trong buôn làng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, quá trình đô thị hóa khiến nhiều nhà dài mất dần dáng vẻ xưa. Nhưng tại Đắk Lắk, với sự hỗ trợ của chính quyền và ý thức gìn giữ của cộng đồng, những ngôi nhà dài vẫn được dựng lên, gắn với các lễ hội và hoạt động du lịch cộng đồng. Nhà dài không chỉ tiếp tục là mái ấm của các gia đình Ê-đê mà còn là nơi kể lại câu chuyện văn hóa mẫu hệ cho thế hệ hôm nay và mai sau.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Vào mỗi dịp đầu xuân, người Mông ở huyện Mèo Vạc lại háo hức bước vào mùa hội. Đây là lúc trai gái trong bản diện những bộ váy áo sặc sỡ, rủ nhau xuống núi, hòa mình vào các trò chơi dân gian truyền thống như thổi khèn, ném còn hay giao duyên. Nhưng điều đặc biệt thu hút sự tò mò và thích thú của du khách là một tục lệ lạ lùng mà già làng vẫn truyền lại từ đời này sang đời khác: Tục "vỗ mông" kén vợ.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/fd18f23316ece7a703486793803b5675dd9756802d709c92dea00c825be72647.png"alt="d.png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chẳng cần lời nói dài dòng, nếu chàng trai trúng tiếng sét ái tình với một cô gái, anh sẽ nhẹ nhàng vỗ vào mông cô như lời ngỏ ý. Nếu cũng “ưng cái bụng”, nàng sẽ vỗ lại. Cứ thế, hai người vừa đi vừa vỗ cho đến khi mỗi bên đủ 9 lần mới thôi. Theo quan niệm của người Mông, chỉ khi đủ 9 cặp vỗ, lời tỏ tình mới chính thức được chấp thuận. Khi ấy, đôi trẻ sẽ tìm chỗ ngồi riêng để tâm tình, tìm hiểu kỹ hơn về nhau trước khi chàng trai nhờ người làm mối đến nhà cô gái, chính thức nên duyên vợ chồng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tục lệ tưởng như bông đùa ấy thực ra lại được gìn giữ rất nghiêm túc. Những cuộc gặp gỡ vỗ mông không hề chỉ là hành động ngẫu nhiên. Trước đó, đôi bên thường đã có sự để ý, tìm hiểu và cảm mến nhau từ những lần đi chợ phiên hay dịp hội hè. Màn vỗ mông chỉ là cái cớ để chàng trai thể hiện tình cảm và bản lĩnh trước người mình thương, cũng là lời "khẳng định chủ quyền" với cộng đồng.Với người Mông, vẻ đẹp của người phụ nữ không nằm ở làn da trắng hay khuôn mặt xinh đẹp. Một cô gái có đôi bắp chân săn chắc, vòng mông đầy đặn, nhún nhảy theo từng bước đi lại là hình mẫu lý tưởng. Bởi theo quan niệm truyền thống, đó là dấu hiệu của sự khỏe mạnh và chăm chỉ trong lao động và nuôi con.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, giữa bao biến động văn hóa, những phong tục độc đáo như vậy vẫn được người Mông nâng niu và gìn giữ như một phần hồn cốt của dân tộc mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Từng là một tập tục phổ biến ở nhiều tộc người Tây Nguyên như Ê Đê, Mạ, M’nông, Stiêng hay Bana, “cà răng căng tai” không chỉ là cách làm đẹp theo quan niệm truyền thống mà còn là biểu tượng cho sự trưởng thành, lòng dũng cảm và phẩm hạnh của mỗi người. Với các chàng trai và cô gái vùng cao, đây là thử thách gần như bắt buộc. Ai không vượt qua sẽ bị cộng đồng chê cười, không được công nhận là thành viên buôn làng, thậm chí khó có thể lập gia đình.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/90fc3f1c524969a3487f89e73f3f272d03c6f3ed1d46cdab903474c0496b3212.png"alt="Avatar.png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Việc cà răng thường được thực hiện vào độ tuổi 15-16, khi thanh thiếu niên bắt đầu bước vào giai đoạn trưởng thành. Dụng cụ dùng để thực hiện nghi lễ hết sức thô sơ, thường là lưỡi dao có răng cưa, mảnh đá mài hoặc chiếc cưa tay, tác động trực tiếp lên 4-6 chiếc răng cửa phía trước. Người thực hiện nghi lễ có thể là người cha hoặc một già làng dày dạn kinh nghiệm, được gọi bằng cái tên kính trọng là “thợ cà răng”. Họ thường để tóc búi tó sau gáy, đôi tai rộng dài theo năm tháng thể hiện việc đã từng trải qua nghi lễ này khi còn trẻ. Để giảm đau, người ta dùng nhựa cây rừng hơ nóng bôi vào chân răng hoặc ngậm thuốc lá ngâm với cây K’nhài hàng tháng trời. Với người Mạ, răng sau khi được mài nhọn còn phải “bóng đẹp” mới được xem là hoàn hảo.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Căng tai cũng là một nghi lễ quan trọng không kém. Khi dái tai được xuyên thủng bằng gai chanh, người ta dùng lõi gỗ hoặc vòng lồ ô có dạng khuyên tròn để nong rộng dần theo thời gian. Dái tai càng dài, lỗ tai càng lớn thì càng được xem là đẹp. Với phụ nữ, đó là biểu hiện của sự chịu khó, siêng năng và phẩm hạnh. Vật dụng dùng để căng tai cũng phản ánh địa vị xã hội trong buôn làng. Người nghèo thường dùng tre, người khá giả thì dùng ngà voi. Nhiều gia đình mua ngà voi qua trao đổi hàng hóa với người Thái, một số khác thì săn voi để lấy ngà làm vật quý.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo lời kể của già làng Y Bhiong Niê ở buôn A Kõ D’hong thuộc thành phố Buôn Ma Thuột, tục cà răng ra đời từ một câu chuyện tình buồn. Một đôi trai gái vì không được cha mẹ chấp thuận nên đã cắn lưỡi tự vẫn giữa rừng sâu. Sau sự ra đi bi thương ấy, các già làng đã họp lại và đưa ra một luật tục, yêu cầu thanh niên đến tuổi trưởng thành đều phải cà răng để không còn ai làm chuyện dại dột như cắn lưỡi phản kháng tình yêu nữa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, tập tục "cà răng căng tai" đã lùi xa vào quá khứ. Nhịp sống hiện đại cùng với sự giao lưu văn hóa đã làm thay đổi cách nhìn về cái đẹp trong cộng đồng người Tây Nguyên. Những hàm răng nhọn hoắt và dái tai căng rộng nay chỉ còn thấp thoáng trên gương mặt những cụ già lớn tuổi. Thế hệ trẻ lớn lên cùng nụ cười trắng sáng và những đôi bông tai nhỏ xinh. Họ không cần phải chịu đựng nỗi đau để khẳng định bản thân mà chọn trưởng thành bằng tri thức, tự do và khát vọng riêng của mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, để giữ vững thế trận và an toàn cho lực lượng cách mạng, các cán bộ chiến sĩ phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc hoạt động bí mật. Một những phương châm lúc bấy giờ là: “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng.”</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/b97bd78f0b69620479714882395ffa12a207544c78cebbecae5d3405c3b1b4c5.jpg"alt="500617834_122206527170085001_8084145729463464056_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Đi không dấu” là một thách thức gian nan. Một vài người đi có thể không để lại nhiều dấu vết nhưng khi cả đoàn hành quân, từng vệt giày in hằn trên đất trở thành nguy cơ bị địch phát hiện. Để ngụy trang, các chiến sĩ phải trải nilon khi qua vạt cỏ, xóa dấu giày trên bùn đất và dùng nước rửa sạch những vết dính. Chỗ mắc võng phải có lớp lót giúp không để lại vết hằn trên thân cây. Tất cả vật dụng dùng xong đều được chôn giấu kỹ, kể cả chất thải sinh hoạt, không để lại một dấu tích nào giữa rừng già.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Căn cứ trong rừng là nơi ra vào thường xuyên, nếu không cẩn thận sẽ lộ thành đường mòn khiến địch dễ dàng phát hiện. Vì vậy, chiến sĩ ta phải kê những khúc cây dài hàng trăm mét để bước đi mà không chạm đất. Khi có nguy cơ, tất cả được thu lại và xóa sạch dấu vết. Xung quanh căn cứ, cây rừng được tạo hình như ngã đổ tự nhiên với những cạm bẫy chờ sẵn bên trong.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Nấu không khói” là cả một kỳ công. Những bếp Hoàng Cầm âm dưới đất giúp che giấu hoàn toàn khói lửa. Một số nơi phải nấu lúc chiều muộn, có khi đang nấu dở cơm phải dập lửa vì tiếng máy bay địch. Chỉ một làn khói mong manh cũng có thể đánh đổi bằng cả chục mạng sống.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Còn “nói không tiếng” là nguyên tắc bất di bất dịch khi hành quân. Mọi thông tin truyền đi bằng ám hiệu, cử chỉ. Có khi, chỉ một động tác sai cũng khiến cả đoàn rơi vào nguy hiểm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ba nguyên tắc trên là kết tinh bởi ý chí thép, sự linh hoạt và bản lĩnh của những con người sống giữa ranh giới sinh tử với mục đích giữ vững từng tấc đất, tấc rừng cho Tổ quốc hôm nay.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook: <a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
LỊCH VÀ SỬ Cộng tác viên
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Trong đời sống truyền thống của người Ê-Đê, tục "Juê nuê" từng được xem là một luật tục thiêng liêng gắn liền với quan niệm gìn giữ tổ ấm và dòng tộc. Tuy nhiên dưới góc nhìn hiện đại, đây cũng là một trong những hủ tục mang nhiều yếu tố ràng buộc khắt khe, đã và đang dần được thay đổi để phù hợp hơn với cuộc sống mới.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/223bedc955b24474a9c338fd65a9c93b02688e9b3d84c2db735598840e3a2b0e.png"alt="Avatar (1).png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tục "Juê nuê" (hay còn gọi là tục “nối dây”) quy định rằng, khi người vợ không còn, chồng phải cưới một người con gái trong họ nhà vợ, miễn là người ấy chưa có gia đình. Ngược lại, nếu chồng mất đi, người vợ có quyền yêu cầu gia đình chồng cử một người em trai thế vào vị trí làm chồng. Luật tục này được thực hiện với mục đích duy trì nòi giống, bảo đảm sự ổn định của gia đình và buôn làng, đặc biệt trong bối cảnh người Ê-Đê xưa sống biệt lập, thường xuyên đối mặt với thiên tai, dịch bệnh và thiếu thốn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy nhiên theo thời gian, những ràng buộc theo kiểu "Juê nuê" đã bộc lộ nhiều bất cập. Việc sắp đặt hôn nhân theo mối quan hệ họ hàng khiến không ít người mất đi quyền tự quyết của chính mình. Ràng buộc vợ-chồng không dựa trên tình yêu, chỉ nhằm mục đích duy trì truyền thống đôi khi dẫn đến những hệ lụy đáng tiếc trong đời sống gia đình và tinh thần của các thành viên liên quan.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, cộng đồng Ê-Đê đã có nhiều thay đổi tích cực trong cách nhìn nhận. Việc “nối dây” không còn mang tính bắt buộc. Người được đề nghị kết hôn có thể từ chối nếu cảm thấy không phù hợp. Trong nhiều trường hợp, thay vì tổ chức hôn nhân theo tục lệ cũ, gia đình bên vợ hoặc bên chồng sẽ nhận trách nhiệm nuôi dưỡng con cái để người còn lại có thể bước tiếp con đường riêng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sự chuyển biến này thể hiện nỗ lực xóa bỏ những hủ tục không còn phù hợp, đồng thời cho thấy sự tiếp thu và điều chỉnh linh hoạt của văn hóa Ê-Đê trước dòng chảy hiện đại. Từ đó, những giá trị tốt đẹp vẫn được gìn giữ nhưng không còn áp đặt lên quyền tự do và hạnh phúc của con người nữa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook: <a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>