LỊCH VÀ SỬ
6 bài viết
0 bình luận
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Trong đời sống tinh thần của người Việt xưa, săn bắn không phải là thú tiêu khiển mà là một hành vi thiết yếu để sinh tồn. Người Việt không xem việc săn thú rừng là niềm vui. Nó như một giải pháp để bảo vệ mùa màng và chống lại hiểm họa từ rừng thiêng. Khác với giới quý tộc châu Âu hay vua chúa phương Bắc vốn coi săn bắn là nghi lễ quyền uy, người Việt không có tục lệ đó. Vua Tự Đức nếu có đi săn cũng chỉ quanh quẩn bắn chim trong vườn ngự.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/910f08b7eb62650581e42dbd43140017b595c1106202d3187463805a6e9ff9be.png"alt="Avatar (2).png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tục săn hổ chỉ thực sự xuất hiện từ đầu thế kỷ XX khi người Pháp đem văn hóa săn thú vào Đông Dương. Lúc này, hổ trở thành đối tượng của những cuộc đi săn nhằm biểu dương thanh thế. Vua Bảo Đại từng là người tiên phong trong thú chơi này. Về sau, Ngô Đình Nhu cũng nổi lên là tay săn có tiếng, từng hạ hơn chục con hổ tại vùng rừng Đà Lạt. Những cuộc đi săn như vậy thường chỉ dành cho tầng lớp có quyền lực, vũ khí hiện đại và điều kiện tổ chức quy mô. Tuy nhiên, trong dân gian, hổ không chỉ là nỗi ám ảnh mà còn là một biểu tượng đầy huyền bí. Tại Bình Định, bà Trần Thị Quyền từng một mình chém chết hổ để cứu mẹ, được triều đình phong danh liệt nữ. Miền núi phía Bắc có tục thờ thần hổ, xem hổ như linh vật canh giữ rừng già. Họ chỉ săn hổ khi chúng phạm tội với người và mỗi cuộc săn ấy đều cần lễ chuộc mạng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở Tây Nguyên, người Ê-Đê tin rằng hổ có linh hồn và là hiện thân của thần rừng. Khi lỡ tay hạ sát hổ, họ phải tổ chức nghi lễ đền mạng và coi đó là một vụ ngộ sát giữa hai sinh thể ngang giá. Mỗi cái chết của 1 con hổ có thể được định giá bằng 15 con trâu. Từ sử liệu, hổ hiện lên vừa đáng sợ vừa thiêng liêng. Trong ký ức của người Việt xưa, hổ không chỉ là thú dữ mà còn là biểu tượng của quyền lực, ranh giới giữa con người và thiên nhiên. Những cuộc săn hổ của thế kỷ trước giờ chỉ còn là chuyện kể nhưng dấu ấn của nó vẫn in đậm trong văn hóa và tâm thức dân tộc.&nbsp;&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Giữa đại ngàn Tây Nguyên, ngôi nhà dài của người Ê-đê không chỉ là nơi sinh sống mà còn là biểu tượng văn hóa mang đậm dấu ấn của chế độ mẫu hệ và đời sống tâm linh đặc sắc. Truyền thuyết về “cầu thang đực, cầu thang cái” chính là minh chứng sống động cho sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và triết lý nhân sinh của cộng đồng này.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/1718875b08a0da07d77348591c342c51796bec9758aeadfb60f12493718b40d0.jpg"alt="unnamed.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhà dài Ê-đê không có độ dài cố định. Cứ mỗi khi con gái trong nhà cưới chồng, người rể sẽ về ở chung. Gia đình lại cơi nới thêm một gian nhà nối tiếp vào gian cũ. Cứ thế, nhà càng dài càng thể hiện sự lớn mạnh của dòng tộc.Trước hiên nhà có hai cầu thang chính bằng gỗ quý, được đẽo thủ công. Một bên dành cho đàn ông trong nhà đi lại, gọi là cầu thang đực. Bên còn lại là cầu thang cái, dành cho phụ nữ. Đầu cầu thang cái được chạm khắc hình lưỡi liềm và hai bầu ngực căng tròn, tượng trưng cho quyền lực và vai trò trung tâm của người phụ nữ trong gia đình. Khi có khách quý đến, bất kể là nam hay nữ, họ đều được mời bước lên bằng lối cầu thang cái. Đôi tay khách chạm vào bầu sữa như một hành động thể hiện sự tôn trọng, biết ơn người mẹ và cũng là lời nhắc nhở con cháu sống đẹp như dòng sữa đã nuôi mình khôn lớn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Bên trong, nhà chia làm hai phần. Phía trước là không gian sinh hoạt chung, nơi đặt ghế chủ, ghế khách, bếp lửa và những hiện vật quý. Phía sau là chỗ ở của các đôi vợ chồng và bếp nấu ăn chung. Trên các xà nhà, người Ê-đê khắc những linh vật như rồng, rùa, voi, kỳ đà mang ý nghĩa cầu may, trừ tà và phản ánh tín ngưỡng phồn thực. Đặc biệt, chỉ những gia đình từng nuôi voi thật mới được khắc hình voi trên xà nhà như một cách khẳng định vị thế trong buôn làng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, quá trình đô thị hóa khiến nhiều nhà dài mất dần dáng vẻ xưa. Nhưng tại Đắk Lắk, với sự hỗ trợ của chính quyền và ý thức gìn giữ của cộng đồng, những ngôi nhà dài vẫn được dựng lên, gắn với các lễ hội và hoạt động du lịch cộng đồng. Nhà dài không chỉ tiếp tục là mái ấm của các gia đình Ê-đê mà còn là nơi kể lại câu chuyện văn hóa mẫu hệ cho thế hệ hôm nay và mai sau.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Vào mỗi dịp đầu xuân, người Mông ở huyện Mèo Vạc lại háo hức bước vào mùa hội. Đây là lúc trai gái trong bản diện những bộ váy áo sặc sỡ, rủ nhau xuống núi, hòa mình vào các trò chơi dân gian truyền thống như thổi khèn, ném còn hay giao duyên. Nhưng điều đặc biệt thu hút sự tò mò và thích thú của du khách là một tục lệ lạ lùng mà già làng vẫn truyền lại từ đời này sang đời khác: Tục "vỗ mông" kén vợ.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/fd18f23316ece7a703486793803b5675dd9756802d709c92dea00c825be72647.png"alt="d.png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chẳng cần lời nói dài dòng, nếu chàng trai trúng tiếng sét ái tình với một cô gái, anh sẽ nhẹ nhàng vỗ vào mông cô như lời ngỏ ý. Nếu cũng “ưng cái bụng”, nàng sẽ vỗ lại. Cứ thế, hai người vừa đi vừa vỗ cho đến khi mỗi bên đủ 9 lần mới thôi. Theo quan niệm của người Mông, chỉ khi đủ 9 cặp vỗ, lời tỏ tình mới chính thức được chấp thuận. Khi ấy, đôi trẻ sẽ tìm chỗ ngồi riêng để tâm tình, tìm hiểu kỹ hơn về nhau trước khi chàng trai nhờ người làm mối đến nhà cô gái, chính thức nên duyên vợ chồng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tục lệ tưởng như bông đùa ấy thực ra lại được gìn giữ rất nghiêm túc. Những cuộc gặp gỡ vỗ mông không hề chỉ là hành động ngẫu nhiên. Trước đó, đôi bên thường đã có sự để ý, tìm hiểu và cảm mến nhau từ những lần đi chợ phiên hay dịp hội hè. Màn vỗ mông chỉ là cái cớ để chàng trai thể hiện tình cảm và bản lĩnh trước người mình thương, cũng là lời "khẳng định chủ quyền" với cộng đồng.Với người Mông, vẻ đẹp của người phụ nữ không nằm ở làn da trắng hay khuôn mặt xinh đẹp. Một cô gái có đôi bắp chân săn chắc, vòng mông đầy đặn, nhún nhảy theo từng bước đi lại là hình mẫu lý tưởng. Bởi theo quan niệm truyền thống, đó là dấu hiệu của sự khỏe mạnh và chăm chỉ trong lao động và nuôi con.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, giữa bao biến động văn hóa, những phong tục độc đáo như vậy vẫn được người Mông nâng niu và gìn giữ như một phần hồn cốt của dân tộc mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Từng là một tập tục phổ biến ở nhiều tộc người Tây Nguyên như Ê Đê, Mạ, M’nông, Stiêng hay Bana, “cà răng căng tai” không chỉ là cách làm đẹp theo quan niệm truyền thống mà còn là biểu tượng cho sự trưởng thành, lòng dũng cảm và phẩm hạnh của mỗi người. Với các chàng trai và cô gái vùng cao, đây là thử thách gần như bắt buộc. Ai không vượt qua sẽ bị cộng đồng chê cười, không được công nhận là thành viên buôn làng, thậm chí khó có thể lập gia đình.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/90fc3f1c524969a3487f89e73f3f272d03c6f3ed1d46cdab903474c0496b3212.png"alt="Avatar.png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Việc cà răng thường được thực hiện vào độ tuổi 15-16, khi thanh thiếu niên bắt đầu bước vào giai đoạn trưởng thành. Dụng cụ dùng để thực hiện nghi lễ hết sức thô sơ, thường là lưỡi dao có răng cưa, mảnh đá mài hoặc chiếc cưa tay, tác động trực tiếp lên 4-6 chiếc răng cửa phía trước. Người thực hiện nghi lễ có thể là người cha hoặc một già làng dày dạn kinh nghiệm, được gọi bằng cái tên kính trọng là “thợ cà răng”. Họ thường để tóc búi tó sau gáy, đôi tai rộng dài theo năm tháng thể hiện việc đã từng trải qua nghi lễ này khi còn trẻ. Để giảm đau, người ta dùng nhựa cây rừng hơ nóng bôi vào chân răng hoặc ngậm thuốc lá ngâm với cây K’nhài hàng tháng trời. Với người Mạ, răng sau khi được mài nhọn còn phải “bóng đẹp” mới được xem là hoàn hảo.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Căng tai cũng là một nghi lễ quan trọng không kém. Khi dái tai được xuyên thủng bằng gai chanh, người ta dùng lõi gỗ hoặc vòng lồ ô có dạng khuyên tròn để nong rộng dần theo thời gian. Dái tai càng dài, lỗ tai càng lớn thì càng được xem là đẹp. Với phụ nữ, đó là biểu hiện của sự chịu khó, siêng năng và phẩm hạnh. Vật dụng dùng để căng tai cũng phản ánh địa vị xã hội trong buôn làng. Người nghèo thường dùng tre, người khá giả thì dùng ngà voi. Nhiều gia đình mua ngà voi qua trao đổi hàng hóa với người Thái, một số khác thì săn voi để lấy ngà làm vật quý.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo lời kể của già làng Y Bhiong Niê ở buôn A Kõ D’hong thuộc thành phố Buôn Ma Thuột, tục cà răng ra đời từ một câu chuyện tình buồn. Một đôi trai gái vì không được cha mẹ chấp thuận nên đã cắn lưỡi tự vẫn giữa rừng sâu. Sau sự ra đi bi thương ấy, các già làng đã họp lại và đưa ra một luật tục, yêu cầu thanh niên đến tuổi trưởng thành đều phải cà răng để không còn ai làm chuyện dại dột như cắn lưỡi phản kháng tình yêu nữa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, tập tục "cà răng căng tai" đã lùi xa vào quá khứ. Nhịp sống hiện đại cùng với sự giao lưu văn hóa đã làm thay đổi cách nhìn về cái đẹp trong cộng đồng người Tây Nguyên. Những hàm răng nhọn hoắt và dái tai căng rộng nay chỉ còn thấp thoáng trên gương mặt những cụ già lớn tuổi. Thế hệ trẻ lớn lên cùng nụ cười trắng sáng và những đôi bông tai nhỏ xinh. Họ không cần phải chịu đựng nỗi đau để khẳng định bản thân mà chọn trưởng thành bằng tri thức, tự do và khát vọng riêng của mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook:&nbsp;<a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, để giữ vững thế trận và an toàn cho lực lượng cách mạng, các cán bộ chiến sĩ phải tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc hoạt động bí mật. Một những phương châm lúc bấy giờ là: “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng.”</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/b97bd78f0b69620479714882395ffa12a207544c78cebbecae5d3405c3b1b4c5.jpg"alt="500617834_122206527170085001_8084145729463464056_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Đi không dấu” là một thách thức gian nan. Một vài người đi có thể không để lại nhiều dấu vết nhưng khi cả đoàn hành quân, từng vệt giày in hằn trên đất trở thành nguy cơ bị địch phát hiện. Để ngụy trang, các chiến sĩ phải trải nilon khi qua vạt cỏ, xóa dấu giày trên bùn đất và dùng nước rửa sạch những vết dính. Chỗ mắc võng phải có lớp lót giúp không để lại vết hằn trên thân cây. Tất cả vật dụng dùng xong đều được chôn giấu kỹ, kể cả chất thải sinh hoạt, không để lại một dấu tích nào giữa rừng già.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Căn cứ trong rừng là nơi ra vào thường xuyên, nếu không cẩn thận sẽ lộ thành đường mòn khiến địch dễ dàng phát hiện. Vì vậy, chiến sĩ ta phải kê những khúc cây dài hàng trăm mét để bước đi mà không chạm đất. Khi có nguy cơ, tất cả được thu lại và xóa sạch dấu vết. Xung quanh căn cứ, cây rừng được tạo hình như ngã đổ tự nhiên với những cạm bẫy chờ sẵn bên trong.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Nấu không khói” là cả một kỳ công. Những bếp Hoàng Cầm âm dưới đất giúp che giấu hoàn toàn khói lửa. Một số nơi phải nấu lúc chiều muộn, có khi đang nấu dở cơm phải dập lửa vì tiếng máy bay địch. Chỉ một làn khói mong manh cũng có thể đánh đổi bằng cả chục mạng sống.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Còn “nói không tiếng” là nguyên tắc bất di bất dịch khi hành quân. Mọi thông tin truyền đi bằng ám hiệu, cử chỉ. Có khi, chỉ một động tác sai cũng khiến cả đoàn rơi vào nguy hiểm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ba nguyên tắc trên là kết tinh bởi ý chí thép, sự linh hoạt và bản lĩnh của những con người sống giữa ranh giới sinh tử với mục đích giữ vững từng tấc đất, tấc rừng cho Tổ quốc hôm nay.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook: <a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>
Ảnh đại diện
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
LỊCH VÀ SỬ Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i><b>Trong đời sống truyền thống của người Ê-Đê, tục "Juê nuê" từng được xem là một luật tục thiêng liêng gắn liền với quan niệm gìn giữ tổ ấm và dòng tộc. Tuy nhiên dưới góc nhìn hiện đại, đây cũng là một trong những hủ tục mang nhiều yếu tố ràng buộc khắt khe, đã và đang dần được thay đổi để phù hợp hơn với cuộc sống mới.</b></i></p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/223bedc955b24474a9c338fd65a9c93b02688e9b3d84c2db735598840e3a2b0e.png"alt="Avatar (1).png"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tục "Juê nuê" (hay còn gọi là tục “nối dây”) quy định rằng, khi người vợ không còn, chồng phải cưới một người con gái trong họ nhà vợ, miễn là người ấy chưa có gia đình. Ngược lại, nếu chồng mất đi, người vợ có quyền yêu cầu gia đình chồng cử một người em trai thế vào vị trí làm chồng. Luật tục này được thực hiện với mục đích duy trì nòi giống, bảo đảm sự ổn định của gia đình và buôn làng, đặc biệt trong bối cảnh người Ê-Đê xưa sống biệt lập, thường xuyên đối mặt với thiên tai, dịch bệnh và thiếu thốn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy nhiên theo thời gian, những ràng buộc theo kiểu "Juê nuê" đã bộc lộ nhiều bất cập. Việc sắp đặt hôn nhân theo mối quan hệ họ hàng khiến không ít người mất đi quyền tự quyết của chính mình. Ràng buộc vợ-chồng không dựa trên tình yêu, chỉ nhằm mục đích duy trì truyền thống đôi khi dẫn đến những hệ lụy đáng tiếc trong đời sống gia đình và tinh thần của các thành viên liên quan.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, cộng đồng Ê-Đê đã có nhiều thay đổi tích cực trong cách nhìn nhận. Việc “nối dây” không còn mang tính bắt buộc. Người được đề nghị kết hôn có thể từ chối nếu cảm thấy không phù hợp. Trong nhiều trường hợp, thay vì tổ chức hôn nhân theo tục lệ cũ, gia đình bên vợ hoặc bên chồng sẽ nhận trách nhiệm nuôi dưỡng con cái để người còn lại có thể bước tiếp con đường riêng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sự chuyển biến này thể hiện nỗ lực xóa bỏ những hủ tục không còn phù hợp, đồng thời cho thấy sự tiếp thu và điều chỉnh linh hoạt của văn hóa Ê-Đê trước dòng chảy hiện đại. Từ đó, những giá trị tốt đẹp vẫn được gìn giữ nhưng không còn áp đặt lên quyền tự do và hạnh phúc của con người nữa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Fanpage Facebook: <a href="https://www.facebook.com/lichvasu">LỊCH VÀ SỬ</a></p></div>