Ảnh đại diện
Phượng Tía Tác giả uy tín
Phượng Tía Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Một nhân vật có xuất thân hiển hách nhưng đã sớm gặp phải biến cố từ khi còn hoài thai trong bụng mẹ, một vương gia dưới 4 triều vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, một thần tử sát cánh với quốc gia giành chiến thắng trong 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (1257, 1285, 1287), cuộc đời Trần Quốc Khang cũng trải đủ phong ba. Bằng một chữ “tĩnh”, bằng thái độ khiêm cung, tấm lòng chân thành, hiểu thấu thế sự, dốc sức chăm lo bổn phận trấn thủ biên cương, Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang đã gầy dựng cho mình một đời bình an, cho con cháu mình giữ được tập ấm, gia đạo an vui nhiều đời.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/13f965ad49504ff7ecc3c2ce8fc2a0fee1fe924ad5b1bd8c3b00ea816350f08d.jpg"alt="Tran Quoc Khang.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>(Nguồn ảnh: Pinterest)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>SÓNG GIÓ CHÀO ĐỜI</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua Trần Thái Tông đã lâu không có con,Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh hoàng hậu để lập Thuận Thiên công chúa làm hoàng hậu, Thuận Thiên là vợ của Trần Liễu, chị dâu của Trần Thái Tông đồng thời là chị gái của Chiêu Thánh. Lúc bấy giờ Thuận Thiên đang mang thai đứa con thứ 2 với Trần Liễu được 3 tháng, Trần Thủ Độ bàn với vua việc phế lập để lấy đứa trẻ đó làm con nối dõi mà nhờ cậy về sau. Nhân lúc triều đình cử Trần Liễu đi xa, Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu đưa Thuận Thiên công chúa vào cung. Bất lực trước tình cảnh éo le này, vua Trần Thái Tông bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử định đi tu. Trần Liễu trở về biết tin, ôm hận nỗi nhục bị cướp vợ cướp con, nhân lúc ngai vàng bỏ trống, Trần Thủ Độ rời kinh tìm vua, Trần Liễu liền họp quân nổi loạn ở sông Cái. Thế nhưng với bản lĩnh gian hùng, Trần Thủ Độ nhanh chóng rước được vua Thái Tông hồi kinh đồng thời thẳng tay tiêu diệt đội quân làm phản. Nổi loạn được 2 tuần, Trần Liễu biết mình thất thế, phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Thái Tông xin tha tội<a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Li%E1%BB%85u#cite_note-PCV-8"></a>. Kết cục của sự biến năm Đinh Dậu, vua Trần Thái Tông buộc phải phế lập, Thuận Thiên trở thành hoàng hậu, Trần Liễu phải an phận làm An Sinh vương không quyền lực không quân đội, còn hoàng hậu bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa. Trần Quốc Khang chính là đứa trẻ trong bụng Thuận Thiên ngày ấy.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sáu tháng sau, khoảng tháng 10 năm 1237, Trần Quốc Khang chào đời trên danh nghĩa là con trưởng vua Trần Thái Tông nhưng thực chất lại là con trai riêng của Thuận Thiên hoàng hậu với An Sinh vương Trần Liễu, tức vai cháu gọi vua là chú ruột. Có lẽ việc đặt tên Trần Quốc Khang cho đứa trẻ dường như cũng là dụng ý của vua Trần Thái Tông về thân thế (các con trai của Trần Liễu có Trần Tung/Trần Quốc Tung, Trần Quốc Tuấn, đích tử Trần Doãn). Khi mới chỉ là bào thai trong bụng mẹ đã bị Thái sư đem ra làm cái cớ của biến cố hoàng tộc náo loạn hậu cung, chào đời trong tình cảnh éo le cha, mẹ, chú, dì không ai vui vẻ, quả thực Trần Quốc Khang đã phải chịu nhiều thiệt thòi. Dù muốn hay không thì từ khi thơ bé, Quốc Khang cũng khó&nbsp; tránh khỏi những lời dị nghị, bàn tán xôn xao của miệng lưỡi người đời về thân thế khác thường, khó nói ra đó.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>HOÀNG TRƯỞNG TỬ NHƯNG KHÔNG PHẢI ĐÍCH TỬ</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vốn là đứa con mà nhà vua muối mặt “mạo nhận” để lấy người nối dõi tông đường, những tưởng Trần Quốc Khang sẽ mãi là hoàng tử có thân phận cao quý nhất hoàng cung từ đó. Vì nỗi day dứt với gia đình người anh trai và sự áy náy với đứa cháu, theo sử sách chép lại, vua Trần Thái Tông nhất mực yêu thương và coi Quốc Khang như con đẻ. Thế nhưng không ai biết trước được chữ ngờ. Cũng chẳng ai rõ đã có những chuyện gì xảy ra, tới 3 năm sau đó, vào tháng 9 năm 1240, Thuận Thiên hoàng hậu hạ sinh cho vua Trần Thái Tông đích tử Trần Hoảng, lập tức được sắc phong làm Đông cung hoàng thái tử (vua Trần Thánh Tông sau này). Một năm sau đó, cuối năm 1241, hoàng hậu sinh tiếp hoàng tử thứ 3, Trần Quang Khải (tức Chiêu Minh Đại vương). Trần Quốc Khang không còn là hoàng tử nối dõi nữa. Từng là đứa trẻ Trần Thủ Độ “cướp về” cho vua để trông cậy mai này, giờ đây cái cớ đó không còn cần đến nữa. Xét trên hoàn cảnh bấy giờ nếu coi như trong hoàng cung đang có “người thừa”, thì người thứ nhất là phế hậu Chiêu Thánh công chúa, dì ruột của Quốc Khang và người thứ hai chính là Trần Quốc Khang, đứa trẻ người ta đã không còn cần đến vai trò của nó nữa. Lớn lên, Trần Quốc Khang hẳn đã biết được mình không phải con ruột của vua Trần Thái Tông và càng có ý thức rõ hơn về thân thế khác biệt của mình so với các hoàng đệ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1248, Thuận Thiên hoàng hậu qua đời ở tuổi 33. Hoàng trưởng tử mới 11 tuổi đã phải chịu nỗi đau mất mẹ. Là anh cả, Quốc Khang trở thành bờ vai an ủi cho những đứa em thơ trong khi chính bản thân mình bơ vơ, mất đi chỗ dựa lớn nhất. Biến cố này có lẽ đã để lại dấu ấn lớn với Quốc Khang và phần nào khiến ông trở thành người quý trọng tình thân hơn quyền lực.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>TĨNH QUỐC VƯƠNG TÀI ĐỨC TẦM THƯỜNG?</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong chính sử không chép rõ về thời điểm Trần Quốc Khang được phong vương, song người viết đồ rằng vào khi vua Trần Thái Tông sắc phong con đích Trần Hoảng làm Đông cung hoàng thái tử thì cũng đồng thời phong tước cho Trần Quốc Khang là Tĩnh Quốc vương. Chữ “Tĩnh Quốc” này có lẽ vừa là sự gửi gắm ước mong từ đây nước nhà an bình chẳng còn can qua, mà cũng rất có thể là lời nhắc nhở với Quốc Khang tựa như tước An Sinh vương ban cho cha ông, Trần Liễu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người viết trộm nghĩ, nếu ngày trước quả thực Trần Liễu có ý định “rửa mối hận, lấy lại thiên hạ” thì trong số những đứa con của ông, Trần Quốc Khang là người có khả năng làm được việc đó nhất. Về chính danh Trần Quốc Khang là hoàng tử con vua Trần Thái Tông, do hoàng hậu Thuận Thiên sinh ra, được nuôi dạy trong hoàng cung, hoàn toàn có thể thừa kế ngai vàng. Về huyết thống, Quốc Khang là giọt máu của Trần Liễu, cùng cha với tất cả những đứa con của An Sinh vương, lại là anh cùng mẹ, cùng lớn lên với các con của Trần Thái Tông bấy giờ (nhiều số tư liệu cho rằng hầu hết những người con vua do các thứ phi sinh đều chào đời sau khi Thuận Thiên hoàng hậu mất). Bởi thế nếu Quốc Khang có mưu đồ khác thì người viết cho rằng ông ấy có nhiều điều kiện thuận lợi. Chắc chắn rằng những yếu tố đó không thể lọt qua con mắt già đời của Thái sư Trần Thủ Độ nhất là khi cha Quốc Khang đã từng làm loạn, cũng như để lại mối bận tâm trong lòng vua cha Trần Thái Tông và vua em Trần Thánh Tông sau này. Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) chép <i>“Tân Dậu, năm thứ 4, 1261, vua Trần Thánh Tông cho Chiêu Minh Đại vương Quang Khải làm Thái uý. Bấy giờ anh vua là Quốc Khang tuổi lớn hơn, nhưng tài đức tầm thường, cho nên cho Quang Khải làm tướng.” </i>Sử gia chép vậy, liệu có thực là Tĩnh Quốc vương tài đức tầm thường?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhìn lại những người con của Trần Liễu như Tuệ Trung thượng sĩ Trần Quốc Tung, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đều là những anh hùng, con gái có Thiên Cảm Nguyên Thánh hoàng hậu Trần Thị Thiều là mẫu nghi thiên hạ, người sinh ra Phật Hoàng Trần Nhân Tông sau này. Lại thấy những người con do Thuận Thiên sinh ra: vua Trần Thánh Tông, Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải đều là bậc minh quân, danh tướng. Vậy thì có lẽ nào hai người con chung của Trần Liễu và Thuận Thiên là Vũ Thành Vương Trần Doãn và Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang lại không thừa hưởng chút thiên tư sáng suốt nào của cha mẹ? Người viết cho rằng chính thân thế đặc biệt của hai anh em, họ buộc phải im hơi lặng tiếng, giữ mình mờ nhạt giữa những cái tên lừng lẫy của anh em trong gia tộc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nếu như người anh trai cùng cha mẹ là Trần Doãn ngày càng thất thế, lạc lõng sau khi Thuận Thiên hoàng hậu và An Sinh vương Trần Liễu sớm qua đời, đã chọn cách bỏ đi, mang theo gia quyến trốn sang nhà Tống năm 1256 khi Đại Việt đứng trước nguy cơ chiến tranh với quân Nguyên Mông, rồi bị Thổ quan phủ Tư Minh nhà Tống là Hoàng Bỉnh bắt lại, đưa trả về nước. Thì có lẽ Trần Quốc Khang may mắn hơn khi còn chỗ dựa là vua Trần Thái Tông, cha con anh em trong nhà hoà thuận, chung sức đồng lòng cùng quân dân đánh bại Mông Cổ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp;Vào năm Mậu Thìn 1268 dưới thời vua Trần Thánh Tông, <i>“mùa đông, tháng 10, vua cùng anh là Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang cùng đùa ở trước mặt Thượng hoàng (tức vua Trần Thái Tông). Thượng hoàng bấy giờ mặc áo vải bông trắng, Tĩnh Quốc múa kiểu người Hồ được Thượng hoàng cởi áo ban cho. Vua cũng múa kiểu người Hồ để xin áo ấy. Quốc Khang nói: “Quý nhất là ngôi hoàng đế, hạ thần không dám tranh với chú hai, nay đức chí tôn cho thần một vật nhỏ mọn này mà chú hai muốn cướp lấy chăng?” Thượng hoàng cả cười nói: “Thế ra con coi ngôi vua với cái áo xoàng này không hơn kém gì nhau”, khen ngợi hồi lâu rồi cho Tĩnh Quốc cái áo ấy.”</i> (Trích ĐVSKTT) Chỉ một chuyện nhỏ về cái áo bông của Thượng hoàng, qua câu trả lời của Trần Quốc Khang, ta có thể thấy ông ấy tài trí không hề tầm thường, vừa hiểu chuyện thế sự, vừa biết nói đùa đúng lúc đúng chỗ để tỏ cái ý mình không tranh quyền, vừa giữ được món quà là cái áo vua cha tặng cho mình, vừa khiến vua cha hài lòng, vừa không làm phật ý vua em.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Rất có thể sau sự việc cái áo, hai vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông đều thay đổi cách nhìn nhận về Trần Quốc Khang. Một năm sau đó, tháng 9 năm 1269, vua phong Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang làm Vọng giang phiêu kỵ đô thượng tướng quân, trấn thủ Diễn Châu (Nghệ An).</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>4.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>MỘT ĐỜI TĨNH LẶNG ĐỔI LẤY GIA AN</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Canh Ngọ, năm 1270, <i>“Tĩnh Quốc Đại vương Quốc Khang dựng phủ đệ ở Châu Diễn, lộng lẫy quá mức thường. Vua nghe tin, sai người đến xem, Tĩnh Quốc sợ, mới tô tượng Phật để thờ (nay là chùa Thông)”</i> (Trích ĐVSKTT). Có người cho rằng Quốc Khang xây dựng phủ đệ quá mức là cách để cho vua em an tâm Tĩnh Quốc đại vương thích hưởng lạc, không có mưu đồ khác. Có người cho rằng Tĩnh Quốc ưa sống xa hoa, để vua nhắc nhở mới đối phó mà nói thành xây chùa. Cá nhân người viết cho rằng cả hai nhận định đều có ý đúng.&nbsp; Dù ẩn ý là như thế nào thì kết quả về sau cho thấy cơ nghiệp nhà Trần đã yên vị ngôi quân chủ, không gặp chính biến, vua Trần Thánh Tông cũng không phải bận lòng về người huynh trưởng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau này các con đích của Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang đều liên hôn với con đích của Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải. Trần Quốc Khang được giao trọng trách trấn giữ Châu Diễn là phên giậu, biên giới phía Nam của Đại Việt lúc bấy giờ. <i>“Về sau chức tri Diễn Châu đều là con cháu của Quốc Khang làm cả, đến khi dòng giống không có con trai, mới dùng người bản châu làm tri châu.”</i> (ĐVSKTT)</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Canh Tý, năm 1300, tháng 3 nhuận, Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang qua đời dưới thời vua Trần Anh Tông, hưởng thọ 64 tuổi. Một nhân vật có xuất thân hiển hách nhưng đã sớm gặp phải biến cố từ khi còn hoài thai trong bụng mẹ, một vương gia dưới 4 triều vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, một thần tử sát cánh với quốc gia giành chiến thắng trong 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (1257, 1285, 1287), cuộc đời Trần Quốc Khang cũng trải đủ phong ba. Cha ruột ông Trần Liễu từng gây chính biến làm loạn ở Sông Cái, con ông cũng có kẻ hèn nhát khi đất nước bị xâm lăng mà đem quân đầu hàng giặc (Chương Hiến hầu Trần Kiện năm 1285 hàng giặc ở Ái Châu nhưng trên đường chạy về nước Nguyên thì bị tướng người Tày là Nguyễn Thế Lộc bắn chết, sau bị xoá Quốc tính đổi họ thành Mai Kiện), song bằng một chữ “tĩnh”, bằng thái độ khiêm cung, tấm lòng chân thành, hiểu thấu thế sự, dốc sức chăm lo bổn phận trấn thủ biên cương, Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang đã gầy dựng cho mình một đời bình an, cho con cháu mình giữ được tập ấm, gia đạo an vui nhiều đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có một Sài Gòn không ồn ào tiếng còi xe, không chói lóa ánh đèn phố thị. Một Sài Gòn thầm thì dưới làn nước, lặng lẽ chảy suốt mấy trăm năm, mang trong mình phù sa, thuyền bè, và những kiếp người miệt mài mưu sinh. Một kinh đô sông nước – nơi nước không chỉ là phong thủy mà là cả một định mệnh.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>1. Mạch nước dựng nên Sài Gòn</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trước khi có đường ray, trước khi có máy bay, Sài Gòn đã hiện diện trong bản đồ miền Nam như một ngã ba sông lớn. Sông Sài Gòn nối liền với hàng trăm kênh rạch của miền Tây, trở thành cửa ngõ mậu dịch tự nhiên. Người Việt, người Hoa, người Khmer, cả người Pháp – đều chọn nước làm đường mà đi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không phải ngẫu nhiên mà người Pháp, khi chiếm Nam Kỳ, không chọn Mỹ Tho hay Vĩnh Long mà lại chọn Sài Gòn làm thủ phủ. Bởi sông Sài Gòn sâu, ít phù sa bồi, và nằm ở điểm giao giữa Chợ Lớn – trung tâm buôn gạo, và Bến Nghé – trung tâm hành chính. Từ đây, tàu hơi nước có thể xuôi về Vũng Tàu, ra biển Đông, hay ngược dòng về Cần Thơ, Châu Đốc.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>2. Chợ Lớn – thủ đô thương hồ của người Hoa</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nếu Sài Gòn là trái tim, thì Chợ Lớn chính là phổi thở kinh tế của vùng đất này. Thành phố Chợ Lớn, trước khi sáp nhập với Sài Gòn, là đô thị riêng biệt – nơi hàng vạn người Hoa gốc Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến... lập nghiệp từ thế kỷ 18. Họ chọn ven kênh rạch để buôn bán, xây chợ, mở lò xay lúa, dựng vựa gạo, lập miếu thờ tổ tiên.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chợ Lớn xưa từng được mệnh danh là "thành phố gạo" của Đông Dương. Lúa gạo từ miền Tây được ghe lớn nhỏ chở qua kênh Tàu Hủ, tập kết tại các vựa xay xát dọc hai bờ. Những bao gạo sau đó lại theo tàu kéo, tàu hơi nước ra cảng Sài Gòn để xuất khẩu đi Pháp, Ấn Độ, Nhật Bản.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tiếng Quảng, tiếng Tiều rộn rã cả khu phố. Đèn lồng đỏ treo cao. Rạp hát tuồng, tiệm thuốc Bắc, nhà hàng Tàu chen chúc trong từng con hẻm. Chợ Bình Tây – biểu tượng của thương nhân Quách Đàm – được xây năm 1914, với kiến trúc Á – Âu hòa quyện, đến nay vẫn là trái tim văn hóa của Chợ Lớn.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>3. Kênh Tàu Hủ – đại lộ ghe bầu của Sài Gòn</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Kênh Tàu Hủ, nối từ sông Sài Gòn vào sâu nội đô, là huyết mạch sống động bậc nhất của kinh đô sông nước. Vào những năm đầu thế kỷ 20, cả trăm chiếc ghe tam bản, ghe bầu, ghe lúa đậu san sát như chợ nổi thu nhỏ. Hai bên bờ là kho hàng, lò xay gạo, tiệm ăn, quán rượu của người Hoa, người Việt, người Ấn. Không có gì không bán, không có gì không chở được bằng ghe.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ban ngày, tiếng máy nổ đuôi tôm rền vang. Ban đêm, đèn dầu lập lòe soi mặt nước như ánh sao rơi. Trẻ con ngủ trên ghe, người lớn sống cả đời với mái chèo. Mỗi con người là một kiếp thương hồ. Mỗi chuyến ghe là một lần đổi chác mồ hôi lấy cơm áo.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dù sau này đô thị hóa, kênh bị ô nhiễm và lấp dần, mỗi dịp Tết đến, ghe chở hoa miền Tây lại nườm nượp kéo về Bến Bình Đông. Chợ hoa "trên bến dưới thuyền" là chút hồn cũ, giữ lấy hương vị xưa trong lòng Sài Gòn hiện đại.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>4. Cảng Sài Gòn – cửa ngõ Đông Dương</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cảng Sài Gòn, được người Pháp xây dựng từ thập niên 1860, nhanh chóng trở thành một trong những cảng hiện đại nhất châu Á thời bấy giờ. Nó đón những con tàu viễn dương từ Marseille, Singapore, Hồng Kông. Hàng hóa từ khắp Đông Dương đổ về: gạo từ Chợ Lớn, cao su từ Biên Hòa, cà phê từ Lâm Đồng, quặng từ Lào.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuyến đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho (khai trương 1885) chính là để phục vụ cảng. Những bao gạo từ miền Tây theo xe lửa lên trung tâm, bốc xếp ra cầu tàu rồi lên thuyền lớn. Cảng Nhà Rồng – nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 – là điểm khởi hành và kết nối Việt Nam với thế giới tư bản Pháp.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Xung quanh cảng, người Pháp quy hoạch khu phố Tây: khách sạn Continental, nhà hàng Maxim’s, rạp Eden, và cả dãy phố người Ấn bán vải, người Hoa bán thuốc Bắc. Nơi đó, Sài Gòn lấp lánh như "hòn ngọc Viễn Đông" – nhưng là một viên ngọc chạm khắc từ nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>5. Sài Gòn hôm nay – hồi sinh những dòng nước xưa</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau 1975, sự phát triển nhanh khiến nhiều con kênh bị lấp, ô nhiễm, hoặc bị quên lãng. Nhưng bước sang thế kỷ 21, Sài Gòn bắt đầu nhìn lại mạch nước đời mình. Kênh Nhiêu Lộc – Thị Nghè được cải tạo, bờ kè lát đá, công viên mọc lên, thuyền du lịch chạy lại. Kênh Tàu Hủ được nạo vét, người dân trở lại sống bên sông.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sông Sài Gòn không chỉ là trục cảnh quan – mà còn là trục phát triển đô thị. Khu đô thị Thủ Thiêm, cảng Cát Lái, cầu Thủ Thiêm, bến Bạch Đằng… tất cả đều lấy dòng sông làm tâm điểm. Những người trẻ giờ đây uống cà phê ven sông, đạp xe dọc bờ kênh, và chụp hình ở bến tàu – nhưng ít ai biết, dưới chân họ là bao lớp thời gian.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>6. Một kinh đô không ngai – mà muôn đời sống động</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sài Gòn chưa từng có ngai vàng, cung điện. Nhưng nó là kinh đô – kinh đô của thương hồ, của mở lòng, của sông nước tụ hội. Nó không khắt khe giữ lấy một bản sắc nào, mà dung hòa hết thảy: người Việt, người Hoa, người Pháp, người Khmer… tất cả cùng sống chung, cùng mưu sinh bên dòng nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không có sông, không có Sài Gòn. Không có ghe bầu, không có thương nhân, không có những đêm lênh đênh ngọn đèn dầu giữa kênh Tàu Hủ, sẽ không có một hòn ngọc Viễn Đông từng rực sáng. Và nếu không gìn giữ, chúng ta sẽ chỉ còn lại bê tông và kỷ niệm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vì vậy, nếu bạn yêu Sài Gòn, xin hãy lắng nghe tiếng nước. Tiếng nước vẫn chảy, như máu trong tim thành phố.</p></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Tác giả uy tín
Phượng Tía Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thái sư Trần Thủ Độ là nhân vật nổi tiếng bậc nhất trong triều đại phong kiến nhà Trần, ông có vai trò đóng góp to lớn cho cuộc chuyển giao ngai vàng từ họ Lý sang họ Trần thông qua sự kiện Nữ đế Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là vua Trần Thái Tông năm 1225. Cuộc đời ông trở thành nguồn cảm hứng đặc biệt trong các nghiên cứu lịch sử, văn hoá, trong sáng tác văn chương, biểu diễn nghệ thuật và cả lĩnh vực điện ảnh. Bởi thế mà ở bài này, người viết chẳng thể kể hết, chỉ mạn phép chia sẻ đôi điều có thể nhiều người chưa biết về Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/99e199f98faffe8a2ae7fa557b615121db1dfede84d9c9e35b010bf526baf833.jpg"alt="10. Tran Thu Do.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>Hé lộ thân thế: Trần Thủ Độ rất có thể là cháu ngoại vua Lý Anh Tông</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong chính sử không đề cập rõ về thân thế của Trần Thủ Độ, chỉ nói ông là em họ của Thái Tổ Trần Thừa, chú họ vua Trần Thái Tông. Song ở các nguồn tư liệu dân gian như gia phả dòng họ Trần, gia phả Trần Ích Tắc biên soạn còn truyền lại ở Trung Quốc có thêm nhiều thông tin hơn. Người viết đã rất bất ngờ khi đọc được thông tin cha mẹ Trần Thủ Độ &nbsp;lại vốn là phò mã, công chúa nhà Lý. Theo đó cha của Trần Thủ Độ là Trần Thủ Huy, một trang nam nhi giỏi võ nghệ đã từng giúp đỡ và phò trợ Thái tử cũ Lý Long Xưởng. Nhờ lập công với triều đình mà Trần Thủ Huy được vua Lý Cao Tông gả công chúa Đoan Nghi (con gái vua Lý Anh Tông) và trở thành phò mã. Về sau, vì nghe lời gièm pha (có lẽ là liên đới với việc Chiêu Linh thái hậu và Thái tử cũ Lý Long Xưởng gây rối), vua Lý đã sai phò mã Trần Thủ Huy và công chúa Đoan Nghi đi sứ nước Liêu (Mông Cổ). Thời đó đi sứ phương xa chẳng khác nào bị đi đày, công chúa Đoan Nghi đã sinh ra Trần Thủ Độ khi ở Liêu quốc, còn con trai đầu là Trần Thẩm thì được gửi lại nhờ người bác họ Trần Lý nuôi dạy. Lớn lên, Trần Thủ Độ được gửi về nước và ở với Trần Lý rồi tham gia vào đại nghiệp của họ Trần. Điều này rất phù hợp với việc Trần Thủ Độ thường tự nhận <i>“Ta không biết chữ nghĩa gì”</i> ý là khi ở với cha mẹ tại nước Liêu thì ông không có điều kiện học hành đầy đủ. Theo các tài liệu trên thì cha mẹ Trần Thủ Độ có khả năng đã mất hoặc sống lưu vong và không có mặt ở Đại Việt khi nhà Trần khởi nghiệp.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cá nhân người viết cho tư liệu đó khá đáng tin và giúp lý giải được thái độ, hành xử cực kỳ phũ phàng của Trần Thủ Độ đối với vua Lý Huệ Tông, Lý Chiêu Hoàng và tôn thất họ Lý sau này.&nbsp; Mặc dù là cháu ngoại họ Lý nhưng bởi do nhà vua bắt cha đi sứ mà gia đình ly tán anh em xa lìa, cha mẹ bất mãn, chịu nhiều vất vả, sớm qua đời là lý do Trần Thủ Độ đã hình thành quan điểm đoạn tuyệt với họ ngoại, ôm mối ân oán dẫn tới những hành động tàn nhẫn, thẳng tay diệt trừ hoàng tộc họ Lý. Trong Đông A di sự, bàn tới lá số tử vi của Trần Thủ Độ có đoạn khi xem lá số cho Thái sư, Huệ Túc phu nhân nói:<i> “Tiên sinh chịu ơn ai một bát cơm, sau sẽ trả bằng một kho thóc. Bị ai mắng một câu, sau này tiên sinh sẽ tru di tam tộc nhà người ta.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>Chủ trương kết hôn nội tộc</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chuyện anh chị em họ kết hôn với nhau là điều thường thấy trong các triều đại phong kiến trên toàn thế giới nhằm mục đích liên hôn chính trị, đảm bảo lợi ích gia tộc. Nhưng tại Đại Việt thời xưa chỉ cho phép việc kết hôn giữa anh chị em họ ngoại con cô con cậu, con dì con già với nhau (khác họ) chứ tuyệt đối không được phép kết hôn trong nội tộc (cùng họ). Và Trần Thủ Độ chính là người đầu tiên có cuộc hôn nhân trái luân thường, ông và người vợ Trần Thị Dung vốn là chị em họ con chú con bác cùng nội tộc. Ông cũng là người đưa ra quy định kết hôn cận huyết chỉ cho phép con cháu Hoàng tộc nhà Trần được kết hôn trong nội tộc với lý do để tránh nạn ngoại thích cướp ngôi (như chính cách nhà Trần đi lên từ ngoại thích đoạt quyền nhà Lý). Vấn đề hôn nhân nội tộc cũng là điều mà các sử gia cực lực phê phán là hành vi trái luân thường đạo lý trong hôn nhân các vua nhà Trần.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Quay lại câu chuyện Trần Thủ Độ vốn được sinh ra và lớn lên ở đất Liêu, thế nên văn hoá tập tục du mục của Mông Cổ rất có thể đã ăn sâu trong nhận thức, trong quan điểm, lối sống của ông. Theo tập quán của người Mông Cổ, kết hôn trong nội tộc là chuyện bình thường. Hơn nữa phong tục hôn nhân Mông Cổ xem người vợ chỉ như “tài sản” của chồng. Điều này có nghĩa rằng khi ông chồng chết đi thì người vợ cũng thuộc về người thừa kế tài sản của ông ta, lúc này người thê thiếp sẽ phải làm vợ của anh/em chồng/con chồng/cháu chồng. Và bởi thê thiếp như tài sản nên đàn ông Mông Cổ cũng được quyền tặng vợ cho người khác (Thành Cát Tư Hãn từng hào phóng đem phi tần trong hậu cung của mình tặng cho tướng soái). Có khả năng do lớn lên trên thảo nguyên, chứng kiến đời sống người Liêu như vậy mà quan điểm về hôn nhân của Trần Thủ Độ khác biệt, trái hẳn với phong tục Đại Việt bấy giờ. Có lẽ cũng bởi vậy mà sau này ông ấy bất chấp đạo lý lập mưu ép vua Trần Thái Tông làm việc trái luân thường, lấy vợ cướp con của anh trai, khiến anh vua là Trần Liễu không chịu nổi bức bách mà kéo quân làm loạn ở sông Cái năm 1237.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy rằng chủ trương kết hôn nội tộc được các vua thời đầu Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông nghiêm chỉnh tuân theo và đã sản sinh cho họ Trần những vị minh quân thần tướng tài năng, song cũng đã gây ra những vấn đề về di truyền nối dõi ở các đời sau. Tới thời vua Trần Anh Tông thì Bảo Từ hoàng hậu (chính thất đồng thời là em họ con chú vua) mấy lần sinh con trai đều đoản mệnh, người con trai duy nhất còn sống tới tuổi trưởng thành là thái tử Trần Mạnh (tức vua Trần Minh Tông) thì do Huy Tư hoàng phi (Chiêu Hiến quận chúa, họ hàng xa với vua) sinh ra. Tới vua Trần Minh Tông thì các con trai do Lệ Thánh hoàng hậu (chính thất đồng thời là em họ con chú vua) đều tuyệt tự (đích tử Trần Nguyên Dục và vua Trần Dụ Tông), các con trai nối nghiệp vua là Trần Hiến Tông (trước Trần Dụ Tông), Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông đều do hai thứ phi họ Lê sinh ra. Đến cuối thời, nhà Trần rốt cuộc cũng không thể tránh khỏi nạn ngoại thích tiếm quyền khi Hồ Quý Ly (trước là Lê Quý Ly, cháu họ gọi Minh Từ thái phi mẹ hai vua Trần Hiến Tông và Trần Nghệ Tông bằng cô) từng bước soán quyền, phế vua, cướp ngôi họ Trần.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>Công thần</b><b> và Quyền thần</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Thủ Độ là công thần bậc nhất trong sự nghiệp khai mở Trần triều là điều hậu nhân bao đời đều công nhận. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn dài để về Trần Thủ Độ :<i> “Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông khóc mà nói rằng:&nbsp;"Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?". Thái Tông lập tức lệnh xe ngựa đến dinh Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đem theo và nói hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ biết. Thủ Độ trả lời:&nbsp;"Đúng như những lời hắn nói". Rồi lấy ngay tiền lụa thưởng cho người ấy.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Qua đoạn sử ngắn đã cho thấy bản thân vị Thái sư cũng thừa nhận rằng quả đúng ông quyền át vua. Người viết mạo muội suy đoán sự việc trên xảy ra ở thời điểm Thái Tổ Trần Thừa đã qua đời, Trần Thái Tông tự mình chấp chính ở tuổi 15,16, khi đó Trần Thủ Độ là Thái sư phụ chính. Trần Thủ Độ không chỉ là công thần khai quốc, đại thần phó trợ mà ông cũng là họ hàng thân thích, là chú họ kiêm cả vai cha vợ vua (là cha dượng cả 2 hoàng hậu của Thái Tông) thế nên trong mắt bậc cha chú, con cháu có lớn vẫn chỉ là đứa trẻ. Bởi ông đã trải bao chinh chiến, đã thấm thía họ Trần gian nan thế nào, vất vả ra sao, đổ bao xương máu, mất mát những gì để giành được ngôi báu, bởi nhận uỷ thác từ Thái Tổ Trần Thừa và cả dòng họ Trần nên với ông điều quan trọng nhất là cơ nghiệp gia tộc, là giữ vững ngôi báu. Vì thế ông ấy sẵn sàng bất chấp tất cả, yêu cầu khắt khe, sẵn sàng thẳng tay dạy dỗ và cả trừng trị những đứa cháu miễn đạt được mục tiêu bảo toàn lợi ích gia tộc. Lúc Thái Tổ Trần Thừa còn tại vị, Trần Thủ Độ chỉ đảm nhận vai trò võ tướng sa trường đánh Bắc dẹp Đông. Khi Thượng Hoàng qua đời, ông là trụ cột trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và cũng nhúng tay luôn vào chuyện hậu cung, hậu duệ của vua Trần Thái Tông. Từ mẩu chuyện nhỏ ở trên, hành động vua Trần Thái Tông đưa luôn người đàn hặc (luận tội) tới gặp Thái sư, một mặt cho thấy lòng tin của vua với ông song ở một khía cạnh khác cũng có thể là vị vua trẻ đang thăm dò thái độ ông chú, biết đâu là bao lâu mới có người dám nói ra điều vua muốn bày tỏ. Lật lại các sự kiện trước đó, năm 1234 vua Trần Thái Tông từng phong cho anh trai Trần Liễu tước Hiển hoàng phụ chính, nhưng chỉ trong vòng 3 năm Trần Liễu đã thảm bại dưới tay Thái sư trên chính trường đến nỗi suýt mất cả mạng. Vua cũng từng muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc vương làm tể tướng, nhưng Thủ Độ gàn:&nbsp;<i>"An Quốc là anh thần, nếu cho giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử. Nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra làm sao?"</i> vua bèn thôi. Có lẽ vị vua trẻ đã từng nhiều lần tìm cách, tìm người làm đối trọng cân bằng quyền lực với Trần Thủ Độ nhưng không thành công.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy Trần Thủ Độ át quyền vua song ông lại không có lòng tư lợi hay ý đồ soán vị, ông một lòng tận tuỵ phò tá Trần Thái Tông. Trong sự biến năm 1237, chính Trần Thủ Độ từng nhận <i>"Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?" </i>Lòng trung thành của ông là nền tảng vững chắc giúp vua gây dựng Đại Việt vững vàng, thịnh trị sau loạn ly cuối thời Lý. Trong cuộc kháng chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất năm 1257, nhờ kinh nghiệm thưở nhỏ hiểu lối sống dân du mục thường đánh nhanh thắng nhanh nhưng bất lợi khi phải chiến đấu dài ngày, Thái sư Trần Thủ Độ đưa ra kế “thanh dã” (vườn không nhà trống) đã phát huy tác dụng làm tiêu hao sức địch, tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu. Vào thời điểm quân nhà Trần thất thế, phải lui quân về sông Thiên Mạc, khi được vua hỏi về kế sách, Thủ Độ khẳng khái tâu: <i>"Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo".</i> Nhờ khí khái kiên cường, tinh thần bất khuất, kế sách vẹn toàn, vua quan nhà Trần tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đánh bại quân Mông Cổ, khiến chúng phải thoái chạy về nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thật đúng với lời Huệ Túc phu nhân khi luận giải lá số tử vi của Trần Thủ Độ<i>: “Tiên sinh hành sự bất chấp luật pháp, chẳng kể đạo lý. Có lúc tiên sinh thành người nửa chính, nửa tà, nửa ma, nửa quỷ. Tiểu nữ e muôn nghìn năm sau còn bị dị nghị. Nhưng… dù ai dị nghị, thì chỉ dị nghị về cá nhân tiên sinh. Còn đối với đất nước, quả thật công lao cũng như tấm lòng của tiên sinh sáng như trăng rằm, không ai chê trách được.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Khi trưởng thành, vua Trần Thái Tông ngày càng thể hiện rõ tài năng đức độ, sự anh minh, sáng suốt của mình và dần làm chủ chính sự. Thái sư Trần Thủ Độ khi lớn tuổi cũng không tham quyền cố vị mà tự lui về sau để nhà vua và thế hệ hậu duệ họ Trần kế thừa cơ&nbsp; nghiệp, gánh vác cơ đồ. Năm 1264 dưới thời vua Trần Thánh Tông, mùa xuân, tháng Giêng, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, hưởng thọ 71 tuổi. Ghi nhận công lao to lớn của ông, Trần Thủ Độ được Thượng hoàng Trần Thái Tông truy tặng thụy hiệu là Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại vương. Theo những gì lưu lại, ông chỉ có một người con trai là Nhân Huệ hầu Trần Phó Duyệt, cháu nội của ông có danh tướng lắm tài nhiều tật Trần Khánh Dư (người cháu này cũng bá đạo trên từng hạt gạo chẳng kém ông nội) và Trần Văn Lộng (sau bị đổi thành Mai Văn Lộng do đã đầu hàng giặc Nguyên vào năm 1285).</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc đời thăng trầm, lắm thị phi nhiều dị nghị của Thái sư Trần Thủ Độ chung quy lại là một lòng dốc sức vì cơ nghiệp họ Trần, một dạ trung thành với vua Trần Thái Tông, một tình yêu chung thuỷ với Linh Từ Quốc mẫu và một nhà quân sự tài năng, một đại thần thanh liêm đức độ hết lòng vì xã tắc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-13-tinh-quoc-dai-vuong-tran-quoc-khang-boi-tinh-ma-an"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 13 Tĩnh Quốc Đại Vương Trần Quốc Khang: Bởi "tĩnh" Mà "an"</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người ta đã đọc Kiều suốt mấy trăm năm, khóc cho nàng, thương cho nàng, ca ngợi tài sắc mà cũng than thân trách phận. Thế hệ chúng tôi – những người trẻ lớn lên giữa thời công nghệ, mạng xã hội và những cuộc tranh luận bất tận – vẫn đọc Kiều. Nhưng chúng tôi không chỉ khóc thương. Chúng tôi muốn hiểu. Và muốn hỏi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Kiều với chúng tôi không chỉ là “tài sắc vẹn toàn” bị vùi dập trong bể khổ. Nàng là một con người thật – sống động, phức tạp. Ở tuổi đôi mươi, chúng tôi nhìn nàng không phải như một pho tượng cổ, mà như một người chị lớn đã đi qua lửa đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng tôi thấy ở Kiều sự thông minh, khí phách và cả sự yếu đuối của con người. Người ta bảo nàng hy sinh vì chữ hiếu, bán mình cứu cha, chấp nhận 15 năm đoạn trường. Nhưng chúng tôi tự hỏi: tại sao xã hội bắt một cô gái gánh tất cả? Chữ hiếu cao quý, nhưng có công bằng với phụ nữ không?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng tôi thương Kiều, nhưng không thần thánh hóa. Chúng tôi dám nói thật: nàng có khi cũng nhẫn nhịn quá mức, cũng mệt mỏi trong lựa chọn tha thứ. Nhưng ai mà trách được? Giữa vòng xoáy bất công ấy, nàng vẫn giữ được tâm hồn, chữ nghĩa, tiếng đàn. Đó là bản lĩnh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong mắt chúng tôi, Kiều không chỉ đáng thương mà còn đáng nể. Chị từng là hoa khôi, là ái nữ, rồi rơi xuống đáy xã hội – nhưng không hóa đá, không thành ác quỷ. Kiều vẫn sống. Vẫn yêu. Vẫn còn nước mắt để khóc, còn lời thơ để hát.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Và chúng tôi, thế hệ Gen Z, không coi Kiều là chuyện cũ. Chúng tôi thấy Kiều trong xã hội hôm nay: trong những cô gái rời quê lên phố, trong những người mẹ, người chị mưu sinh, trong những ánh mắt không chịu tắt lửa dù bao lần bị dập vùi. Chúng tôi thấy Kiều trong nạn nhân của lừa lọc, bạo lực, bóc lột, nhưng cũng thấy Kiều trong người phụ nữ dám đứng lên kể lại câu chuyện đời mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhiều người trong chúng tôi muốn viết lại truyện Kiều theo cách riêng: cho nàng lựa chọn khác, cho nàng sống vì chính mình. Không phải để chê trách Nguyễn Du, mà để trả lại cho Kiều quyền được mơ một số phận công bằng hơn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng tôi đọc Kiều không chỉ để thuộc lòng lục bát, mà để soi lại xã hội, soi lại mình. Để thương người hơn. Để hiểu rằng dù thời nào, con người vẫn vật lộn giữa cái thiện và cái ác, vẫn phải tìm đường giữ lấy nhân phẩm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Kiều trong mắt chúng tôi – không phải nàng tiên bất hạnh, cũng không chỉ là biểu tượng văn chương – mà là một người đàn bà từng sống thật dữ dội, yêu thật nhiều, chịu thật nhiều, và vẫn không chịu bị nuốt chửng bởi bóng tối.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Và đó là lý do vì sao, sau hàng thế kỷ, chúng tôi vẫn muốn gọi tên Kiều.</p></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người ta đã đọc Kiều suốt mấy trăm năm, khóc cho nàng, thương cho nàng, ca ngợi tài sắc mà cũng than thân trách phận. Thế hệ chúng tôi – những người trẻ lớn lên giữa thời công nghệ, mạng xã hội và những cuộc tranh luận bất tận – vẫn đọc Kiều. Nhưng chúng tôi không chỉ khóc thương. Chúng tôi muốn hiểu. Và muốn hỏi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Kiều với chúng tôi không chỉ là “tài sắc vẹn toàn” bị vùi dập trong bể khổ. Nàng là một con người thật – sống động, phức tạp. Ở tuổi đôi mươi, chúng tôi nhìn nàng không phải như một pho tượng cổ, mà như một người chị lớn đã đi qua lửa đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng tôi thấy ở Kiều sự thông minh, khí phách và cả sự yếu đuối của con người. Người ta bảo nàng hy sinh vì chữ hiếu, bán mình cứu cha, chấp nhận 15 năm đoạn trường. Nhưng chúng tôi tự hỏi: tại sao xã hội bắt một cô gái gánh tất cả? Chữ hiếu cao quý, nhưng có công bằng với phụ nữ không?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng tôi thương Kiều, nhưng không thần thánh hóa. Chúng tôi dám nói thật: nàng có khi cũng nhẫn nhịn quá mức, cũng mệt mỏi trong lựa chọn tha thứ. Nhưng ai mà trách được? Giữa vòng xoáy bất công ấy, nàng vẫn giữ được tâm hồn, chữ nghĩa, tiếng đàn. Đó là bản lĩnh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong mắt chúng tôi, Kiều không chỉ đáng thương mà còn đáng nể. Chị từng là hoa khôi, là ái nữ, rồi rơi xuống đáy xã hội – nhưng không hóa đá, không thành ác quỷ. Kiều vẫn sống. Vẫn yêu. Vẫn còn nước mắt để khóc, còn lời thơ để hát.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Và chúng tôi, thế hệ Gen Z, không coi Kiều là chuyện cũ. Chúng tôi thấy Kiều trong xã hội hôm nay: trong những cô gái rời quê lên phố, trong những người mẹ, người chị mưu sinh, trong những ánh mắt không chịu tắt lửa dù bao lần bị dập vùi. Chúng tôi thấy Kiều trong nạn nhân của lừa lọc, bạo lực, bóc lột, nhưng cũng thấy Kiều trong người phụ nữ dám đứng lên kể lại câu chuyện đời mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhiều người trong chúng tôi muốn viết lại truyện Kiều theo cách riêng: cho nàng lựa chọn khác, cho nàng sống vì chính mình. Không phải để chê trách Nguyễn Du, mà để trả lại cho Kiều quyền được mơ một số phận công bằng hơn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chúng tôi đọc Kiều không chỉ để thuộc lòng lục bát, mà để soi lại xã hội, soi lại mình. Để thương người hơn. Để hiểu rằng dù thời nào, con người vẫn vật lộn giữa cái thiện và cái ác, vẫn phải tìm đường giữ lấy nhân phẩm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Kiều trong mắt chúng tôi – không phải nàng tiên bất hạnh, cũng không chỉ là biểu tượng văn chương – mà là một người đàn bà từng sống thật dữ dội, yêu thật nhiều, chịu thật nhiều, và vẫn không chịu bị nuốt chửng bởi bóng tối.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Và đó là lý do vì sao, sau hàng thế kỷ, chúng tôi vẫn muốn gọi tên Kiều.</p></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Tác giả uy tín
Phượng Tía Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Thái Tổ Trần Thừa chính là người khai mở và đặt nền móng vững chắc cho triều đại hào khí Đông A kéo dài 175 năm với 12 đời hoàng đế. Những gì ông thực hiện trong cách thức cai trị đất nước, chủ trì gia sự để lại ảnh hưởng rất lớn tới các thế hệ quân vương kế tiếp, từ việc khuyến khích đạo Phật, chính sách đối nội đối ngoại, lệ các vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con rồi lên làm Thái thượng hoàng cùng vua con cai trị đất nước, quy định kết hôn trong nội tộc… đều được duy trì suốt triều đại. Ghi chép về vị Thái tổ đặc biệt này không nhiều, ông được nhắc đến chủ yếu ở vai trò là cha của vua Trần Thái Tông mà ít được nói đến trong những thành tựu hay các sự biến quan trọng diễn ra trong công cuộc chuyển ngôi và xây dựng cơ nghiệp nhà Trần.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/15d36bf3052a3255c12f474004a8c0be9aa0ee9c71e759eda86a618cca86025c.jpg"alt="16. Tran Thua.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Vị Thái Tổ chưa từng ở ngôi vua</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong thời kỳ phong kiến tại các quốc gia Á Đông, miếu hiệu “Thái Tổ” thường được dành cho vị vua đầu tiên có công sáng lập ra triều đại mới. Thế nhưng Trần Thái Tổ Trần Thừa lại chưa từng ở ngôi vua. Ông là Thái thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần khi con trai ông - Trần Cảnh trở thành hoàng đế khai mở Trần triều.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1225, vua Trần Thái Tông lên ngôi khi mới 7 tuổi sau màn chuyển giao Nữ đế Lý Chiêu Hoàng trút hoàng bào nhường ngôi cho chồng. Tân đế tuổi còn nhỏ, Trần Thừa trở thành người nhiếp chính cho con trai và cùng với người em họ - Thái sư Trần Thủ Độ làm chủ triều chính. Thái thượng hoàng Trần Thừa chính là người nắm thực quyền từ lúc con trai lên ngôi cho đến khi ông qua đời, tổng cộng là 9 năm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1234), Thượng hoàng Trần Thừa mất, thọ 51 tuổi, táng ở Thọ Lăng phủ Long Hưng (tỉnh Thái Bình), miếu hiệu là Huy Tông, thụy hiệu là Khai Vận Lập Cực Hoằng Nhân Ứng Đạo Thuần Chân Chí Đức Thần Vũ Thánh Văn Thùy Dụ Chí Hiếu Hoàng Đế.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng Giêng năm Mậu Thân (1248), vua Trần Thái Tông đổi miếu hiệu của ông từ Huy Tông thành Thái Tổ, đổi gọi Thọ Lăng thành Huy Lăng. Việc truy tôn miếu hiệu cho Thượng hoàng thành Thái Tổ không chỉ thể hiện tấm lòng hiếu kính của nhà vua mà còn là sự ghi nhận công lao to lớn của Trần Thừa được hậu nhân tôn là người sáng lập triều đại Đông A.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Cao thủ “ẩn thân” ngồi trong màn trướng định thời cuộc</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Thừa là con trưởng của Trần Lý, anh trai của Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung (còn có tên là Trần Nhị Nương, hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông, mẹ của nữ đế Lý Chiêu Hoàng). Ông cũng là anh họ của Trần Thủ Độ và là cháu gọi Tô Trung Từ (trọng thần triều Lý) bằng cậu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1209 vua Lý Cao Tông nhu nhược bất tài, chơi bời vô độ, bỏ bê triều chính, nghe lời gièm pha giết hại trung thần dẫn đến nạn Quách Bốc xảy ra, thiên hạ đại loạn. Thái tử Lý Hạo Sảm chạy nạn về Hải Ấp, nơi gia đình Trần Lý cai quản. Thái tử cảm mến Trần Thị Dung bèn lấy làm vợ và phong cho Trần Lý tước Minh tự. Nhân có chính lệnh, Trần Lý cùng em vợ là Tô Trung Từ (đang làm quan trong triều) phát triển lực lượng để đánh Quách Bốc. Lúc đó, Trần Thừa cùng em trai Trần Tự Khánh và em họ Trần Thủ Độ tham gia vào quân đoàn Hải Ấp. Năm sau (1210), Tô Trung Từ và Trần Lý đánh bại Quách Bốc nhưng Trần Lý tử trận. Trần Thừa là con trưởng song người con thứ hai của Trần Lý tức Trần Tự Khánh lại trở thành người lãnh đạo họ Trần. Có giả thuyết rằng Trần Thừa là con trưởng nhưng dòng thứ xuất, Trần Tự Khánh là con dòng đích nên được kế tục. Có người lại suy đoán Trần Tự Khánh là em nhưng có tài cầm quân, có năng lực hơn nên được Trần tộc chọn làm người kế nhiệm. Dù là vì lý do nào thì cũng từ đó, trong suốt 13 năm, Trần Thừa là người đứng sau em trai Trần Tự Khánh dẫn dắt đội quân họ Trần. Nhờ có sức mạnh quân sự, họ Trần chiếm ưu thế đánh thắng các thế lực cát cứ địa phương lại là ngoại thích của vua, dần dần Trần Tự Khánh và Trần Thừa nắm trọn quyền lực trong triều đình vua Lý Huệ Tông. Trong khi Trần Tự Khánh là Thái uý, võ tướng xông pha trận mạc thì Trần Thừa là Nội thị phán thủ hầu cận hoàng đế xử lý các việc ở hậu phương.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1223, Trần Tự Khánh đột ngột qua đời, Trần Thừa được Lý Huệ Tông phong làm Thái úy Phụ chính, ông cùng với người em họ Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ thao túng triều đình. Trần Tự Khánh nắm quyền hơn 7 năm vua Lý Huệ Tông tuy không có thực quyền song vẫn được yên vị. Nhưng từ khi Trần Thừa lên phụ chính thì chỉ trong vòng 2 năm sau nhà Lý mất ngôi về tay họ Trần. Từ việc sắp đặt cho Thuận Thiên công chúa lấy Trần Liễu, con trai trưởng của Trần Thừa tới sự kiện vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái út Chiêu Thánh công chúa năm 1224 để xuất gia tu hành, từ việc an bài cho Trần Cảnh, con trai thứ kề cận Lý Chiêu Hoàng tới việc Nữ đế cưới Trần Cảnh khi mới chỉ là đứa trẻ 6 tuổi rồi nhường ngôi cho chồng năm 1225, hậu thế về sau thường nhắc tới là do Thái sư Trần Thủ Độ mưu tính sắp đặt. Nhưng nếu suy xét kỹ lưỡng đều có thể nhận ra “ván cờ” chuyển giao quyền lực chóng vánh từ nhà Lý sang nhà Trần chẳng thể thiếu phần bàn tay đặt đường đi nước bước của Trần Thừa, người lãnh đạo họ Trần khi đó.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử chép tháng 8 năm 1226, lo sợ lòng dân nhớ vua cũ, với ý đồ “nhổ cỏ tận gốc”, Trần Thủ Độ bức tử vua Lý Huệ Tông lúc này đã là Huệ Quang đại sư tu hành ở chùa Chân Giáo. Thời điểm đó vua Trần Thái Tông đã ở ngôi gần một năm, vua cũ Lý Chiêu Hoàng đã trở thành Chiêu Thánh hoàng hậu, Lý Huệ Tông đã mất ngôi cũng chẳng có gì trong tay hơn 2 năm rồi và triều đình nhà Trần cũng không hề gặp phải sự kháng cự uy hiếp của thế lực nào. Vậy thì tại sao nhất định ép Lý Huệ Tông phải chết? Người viết mạo muội suy đoán rằng ngoài lý do dẹp trừ hậu hoạ thì còn là bởi Lý Huệ Tông còn sống thì vẫn đang có danh vị Thái thượng hoàng và Trần Thị Dung vẫn là đương kim Thái hậu. Chỉ khi Lý Huệ Tông chết rồi thì ngôi vị Thái thượng hoàng mới bỏ trống và Trần Thị Dung không còn là Thái hậu, lúc đó Trần Thừa và gia quyến mới có chính danh bước vào làm chủ hoàng cung.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngay sau cái chết của Lý Huệ Tông, tháng 10 năm đó, Trần Thừa được vua Trần Thái Tông tôn làm Thái thượng hoàng, ngự ở Phụ Thiên cung, chính thất Lê thị được tôn làm Quốc Thánh Hoàng thái hậu, gia quyến theo vào hoàng cung. Đồng thời Thái hậu Trần Thị Dung lập tức bị vua giáng xuống thành Thiên Cực công chúa và gả cho Trần Thủ Độ rồi được ban danh xưng mới là Linh Từ Quốc mẫu. Hẳn ai cũng thừa hiểu mọi chiếu chỉ của nhà vua thời điểm đó thực ra đều là ý chỉ của Thái thượng hoàng. Để tác thành hôn sự cho Trần Thủ Đô, Trần Thừa đã chấp nhận hôn nhân nội tộc và gả em gái cho em họ con chú của mình. Đó là hôn sự mở đầu rồi trở thành thông lệ về sau của hoàng tộc nhà Trần chỉ cho phép kết hôn trong nội tộc nhằm ngăn ngừa rủi ro đến từ ngoại thích khác họ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dường như những việc khuất tất, thị phi của họ Trần trong các sự kiện diễn ra dưới thời vua Trần Thái Tông người ta đều nghĩ ngay là mưu tính của Thái sư Trần Thủ Độ. Nhưng theo những gì chép lại về sự biến năm 1336, Trần Thủ Độ ép vua Trần Thái Tông phế Chiêu Thánh hoàng hậu và lập Thuận Thiên công chúa (chị của Chiêu Thánh, chị dâu của Trần Cảnh, vợ của Trần Liễu) đang mang thai 3 tháng làm hoàng hậu,&nbsp; khi Trần Liễu làm phản bất thành tìm đến thuyền Trần Thái Tông xin hàng, Trần Thủ Độ muốn giết Trần Liễu nhưng vua lấy thân mình che cho anh và hoà giải, Thủ Độ tức lắm, ném gươm xuống sông nói: <i>"Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?".&nbsp; </i>Từ câu nói của Trần Thủ Độ có thể suy luận trước kia ông ấy rất có thể chỉ là người đứng ra thực thi chứ chưa chắc đã là người quyết định mọi việc trong Trần tộc. Để có được một người họ hàng và cũng là bề tôi trung thành sẵn sàng hành động, đứng ra gánh lấy tiếng xấu như Trần Thủ Độ thì Trần Thừa phải là cao thủ chính trường, bậc thầy mưu kế, giỏi thu phục nhân tâm mới có thể ẩn thân nơi màn trướng mà lấy được lòng người, định cuộc thiên hạ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Bậc thầy “mỹ nhân kế”, Đế vương đa tình</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Thừa là bậc thầy mưu kế, trong cuộc đời mình ông đã nhiều lần sử dụng mỹ nhân kế để đối phó tiêu diệt kẻ thù và thu phục tướng dưới trướng. Năm 1211, khi em họ ông là Tô thị (con gái của Tô Trung Từ) tố cáo việc bộ tướng của Tô Trung Thừa là Nguyễn Trinh giết chồng cướp vợ, ông lập mưu sai Tô thị dụ Nguyễn Trinh đến và giết chết. Năm 1226, Trần Thừa đem gả em gái là cựu Thái hậu Lý triều cho Trần Thủ Độ củng cố lòng trung thành sống chết vì cơ nghiệp nhà Trần của Thủ Độ. Năm 1228, triều đình đem Ngoạn Thiềm công chúa gả cho Nguyễn Nộn thế lực cát cứ còn lại sau cùng để ngầm dò la tin tức. Và hẳn là còn nhiều sự việc “ban hôn” khác mà sử sách không ghi chép lại.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Giỏi sử dụng mỹ nhân kế, đồng thời Trần Thái Tổ cũng là vị Đế vương đa tình. Toàn thư chép năm 1226 ngay sau khi vua Trần Thái Tông tôn cha làm Thái thượng hoàng liền ra sắc lệnh tuyển thục nữ trong dân gian sung làm cung nhân. Theo các tư liệu ghi nhận ông có ít nhất 5 người con trai (Trần Liễu, Trần Cảnh, Trần Nhật Hiệu, Trần Bà Liệt, Trần Di Ái) và 3 người con gái (Thuỵ Bà công chúa, Ngoạn Thiềm công chúa, Thiên Thành công chúa). Trong đó riêng Trần Bà Liệt là con rơi tới tận năm 1232 mới được nhận. Chuyện kể rằng Bà Liệt là kết quả của mối tình phong lưu thưở hàn vi khi Thượng hoàng còn làm tướng quân với người con gái ở thôn Bà Liệt (Tây Chân, Nam Định). <i>Bà Liệt lớn lên, mặt mũi khôi ngô, giỏi võ nghệ, xin sung vào đội đánh vật. Có một hôm Bà Liệt cùng với người trong đội đánh vật, người kia vật ngã Bà Liệt, bóp hầu gần nghẹt thở, Thượng hoàng trông thấy thét to lên rằng: “Con ta đấy”. Người ấy sợ lạy tạ. Ngay ngày hôm ấy Thượng hoàng nhận Bà Liệt làm con, vua bèn phong cho Bà Liệt làm Hoài Đức Vương.</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thái Tổ Trần Thừa chính là người khai mở và đặt nền móng vững chắc cho triều đại hào khí Đông A kéo dài 175 năm với 12 đời hoàng đế. Những gì ông thực hiện trong cách thức cai trị đất nước, chủ trì gia sự để lại ảnh hưởng rất lớn tới các thế hệ quân vương kế tiếp, từ việc khuyến khích đạo Phật, chính sách đối nội đối ngoại, lệ các vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con rồi lên làm Thái thượng hoàng cùng vua con cai trị đất nước, quy định kết hôn trong nội tộc… đều được duy trì suốt triều đại. Ghi chép về vị Thái tổ đặc biệt này không nhiều, ông được nhắc đến chủ yếu ở vai trò là cha của vua Trần Thái Tông mà ít được nói đến trong những thành tựu hay các sự biến quan trọng diễn ra trong công cuộc chuyển ngôi và xây dựng cơ nghiệp nhà Trần. Song không thể không thừa nhận Thái Tổ Trần Thừa quả thực rất tài năng, giỏi mưu lược và có phong thái đế vương thượng võ, khoáng đạt, được lòng người.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-12-thai-su-tran-thu-do-doi-dieu-he-lo"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 12 Thái Sư Trần Thủ Độ: Đôi Điều Hé Lộ</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Tác giả uy tín
Phượng Tía Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Khi nhắc đến thời đại Đông A, hậu thế đều biết đến tiếng tăm lẫy lừng của thái sư Trần Thủ Độ, người có&nbsp; công lớn trong việc chuyển giao ngai vàng từ họ Lý về tay họ Trần. Nếu như Trần Thủ Độ được coi là người hoàn tất công cuộc chuyển giao thì anh họ của ông, Trần Tự Khánh chính là người mở ra con đường đi tới ngôi vua cho họ Trần. Thuỵ hiệu Kiến Quốc Đại vương được truy phong sau khi vua Trần Thái Tông lên ngôi chính là sự ghi nhận những đóng góp của Trần Tự Khánh với cơ nghiệp nhà Trần.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/dfc23f7355b3c15dd48d983a4853e23ed862c4610b1d35fba7d1f98bda20ff7e.jpg"alt="14. Tran Tu Khanh.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Loạn thế sinh anh hùng</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Trần Tự Khánh là con thứ hai của Trần Lý, em của Thái Tổ Trần Thừa và là anh của Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung. Trần Tự Khánh lớn lên trong thời kỳ suy yếu của triều đình nhà Lý, vua Lý Cao Tông chơi bời vô độ, bỏ bê triều chính, quan lại tham ô ra sức bóc lột, dân chúng khốn cùng, nạn cướp bóc nổi lên, loạn lạc triền miên. Khắp nơi các tướng lĩnh, hào trưởng địa phương nhân lúc loạn lạc nuôi ý định xây dựng lực lượng riêng, trong đó có cha Trần Tự Khánh là Trần Lý ở vùng Hải Ấp.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1209, vua Cao Tông nghe lời gian thần Phạm Du, xử oan tướng Phạm Bỉnh Di khiến cho thuộc hạ của Bỉnh Di là Quách Bốc bất bình, nổi loạn. Trước tình thế đó, vua Cao Tông theo Phạm Du chạy trốn về Tam Nông (Phú Thọ), còn Thái tử Sảm (tức vua Lý Huệ Tông) cùng mẹ là An Toàn Hoàng hậu và hai em gái chạy về quê ngoại vùng Hải Ấp (Thái Bình) rồi được cha Trần Tự Khánh là Trần Lý và cậu ruột ông, Tô Trung Từ phò tá. Quách Bốc đem quân vào nội điện thì cả Vua và Thái tử đều bỏ trốn, liền tôn hoàng thứ tử là Lý Thầm mới 8 tuổi làm vua. Nghe tin, Trần Lý và Tô Trung Từ bèn tôn Thái tử Sảm làm vua, xưng là Thắng vương. Thái tử Sảm lấy con gái của Trần Lý là&nbsp;Trần Thị Dung làm vợ và phong cho Trần Lý tước Hải Minh Tự, Tô Trung Từ làm Điện tiền Chỉ huy sứ. Nhân có chính lệnh của Thái tử, Trần Lý có chính danh phát triển lực lượng để đánh Quách Bốc. Lúc này, Trần Tự Khánh trở thành cánh tay đắc lực trợ giúp cho cha và cậu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1210, Tô Trung Từ và Trần Lý đánh bại Quách Bốc nhưng Trần Lý tử trận. Tô Trung Từ sai người đến Hải Ấp rước Thái tử Sảm đưa về kinh sư. Trần Tự Khánh tuy là con thứ nhưng thay cha thống lĩnh đội quân họ Trần. Có người suy đoán Trần Tự Khánh trở thành người kế nhiệm cha có thể vì Tự Khánh tuy là em nhưng là con đích còn người anh Trần Thừa là dòng thứ xuất. Lại có ý kiến cho rằng bởi Trần Tự Khánh thông thạo binh pháp, có tài cầm quân, tướng tá quân sĩ đều theo phục nên được chọn làm người lãnh đạo họ Trần. Quả thật những gì diễn ra về sau đã cho thấy Trần Tự Khánh không hổ danh là vị tướng tài hiếm có trong thời loạn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 10 năm 1210, vua Cao Tông băng hà, Thái tử Sảm lên ngôi, tức vua Lý Huệ Tông. Huệ Tông lập Trần Nhị Nương làm Nguyên phi, Tô Trung Từ được phong làm Thái uý cùng với Đàm Dĩ Mông coi việc triều chính, Trần Tự Khánh được phong tước Chương Thành hầu. Để đánh bại Quách Bốc, phò tá vua Lý hồi kinh, họ Trần đã phải hy sinh biết bao xương máu, của cải, bản thân Trần Tự Khánh đã mất cha trong chiến trận. Thế nhưng khi luận công khen thưởng, ông cậu Tô Trung Từ trở thành đại thần đầu triều còn đứa cháu Trần Tự Khánh thì chỉ phong “hầu” làm “bá” địa phương chứ chẳng được tham chính. Rất có thể lúc này trong nội bộ gia đình họ đã có lục đục giữa ông cậu họ Tô và những đứa cháu họ Trần.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 7 năm 1211, Tô Trung Từ đang đêm sang Gia Lâm tư thông với công chúa Thiên Cực, bị quan nội hầu Vương Thượng là chồng công chúa giết chết. Tô Trung Từ sau khi trở thành quyền thần lại rơi vào cái kết ham sắc hại thân y hệt cái chết của gian thần Phạm Du khi trước. Cái chết của Tô Trung Từ một lần nữa khiến kinh thành hỗn loạn, các bộ tướng của Tô Trung Từ là Nguyễn Tự, Nguyễn Trinh làm phản tự tách thế lực riêng, con rể Tô Trung Từ là Nguyễn Ma La cũng bị Nguyễn Trinh giết hại. Lực lượng của họ Tô Trung tan rã.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhân lúc kinh thành bỏ trống, Trần Tự Khánh kéo quân về kinh sư, an táng cho người cậu Tô Trung Từ. Từ đó, chiến sự giữa các sứ quân ở cả kinh thành lẫn thế lực cát cứ địa phương ngày càng ác liệt và cuối cùng Trần Tự Khánh thắng thế, anh em họ Trần nắm quyền khống chế triều đình nhà Lý. Có thể thấy ở điểm xuất phát, Trần Tự Khánh không có nhiều lợi thế so với các thế lực khác, song bằng tài thao lược, bản lĩnh chiến đấu thực thụ của mình, ông cùng với đội quân họ Trần đã giành được quyền kiểm soát kinh sư và triều đình vua Lý.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Gian hùng “phản trắc” phế lập ngôi vua</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Việc Trần Tự Khánh tự ý kéo quân về kinh sư khi chưa có lệnh vua với danh nghĩa an táng cho cậu Tô Trung Từ đã khiến các thế lực khác có cớ vu với vua Lý Huệ Tông rằng ông đem quân về kinh sư là muốn mưu đồ phế lập. Có một số tư liệu ghi rằng năm 1211, <i>“Đàm Thái hậu ngờ vực Trần Tự Khánh có ý phế lập ngôi vua. Bà bèn đem ba Hoàng tử: Nhân Quốc vương, Lục hoàng tử và Thất hoàng tử con của Cao Tông với các thị thiếp khác dìm đầu chết ở sau giếng trong cung. Rồi sai đem xác cả ba người vứt ra ngoài thành. Quần thần đều sợ Thái hậu không ai dám can. Thế là ngôi vị của Huệ Tông được giữ vững mà không sợ bị phế lập</i>.”&nbsp; Vua Lý Huệ Tông nghi ngờ Trần Tự Khánh nên giáng Nguyên phi Trần thị xuống làm Ngự nữ và hạ chiếu cho các đạo binh khác đánh quân Trần Tự Khánh. Huệ Tông loay hoay dựa vào ngoại thích họ Đàm, lúc ngả theo họ Đoàn, khi chọn theo họ Nguyễn nhưng mấy lần xuất quân đều thua trận, phải đem Hoàng thất bỏ chạy lên Lạng Châu. Trần Tự Khánh cũng mấy lần đem thư tạ tội và xin đón xa giá nhà vua nhưng Huệ Tông từ chối và tiếp tục bỏ chạy. Có thể ở thời điểm đó quả thực Trần Tự Khánh không có ý đồ phế lập mà chỉ muốn nhà vua chọn theo họ Trần. Một phần vì có em gái là sủng phi của vua, một phần không muốn mang danh loạn thần tặc tử nên Trần Tự Khánh vừa đánh vừa xoa để buộc nhà vua về với mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1214, không đón được vua Huệ Tông về kinh, Trần Tự Khánh triệu tập các vương hầu, bá quan bàn việc cải lập, sai người đón một người con của vua Lý Anh Tông lập làm Nguyên vương, lấy chính danh tiếp tục đánh các sứ quân khác. Trần Tự Khánh đưa vua mới về hành cung Lý Nhân rồi bao vây Thăng Long, lấy hết tài sản, đốt phá cung điện, ngày vua Huệ Tông trở lại hoàng cung phải dựng lều tranh để ở. Trong lúc đó vua Lý Huệ Tông mắc kẹt giữa mẹ và vợ, sử chép: <i>"Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc nên thường chỉ Trần thị mà nói là bè đảng của giặc, bảo nhà vua phải đuổi bỏ đi. Sau đó, bà lại sai người nói với Trần thị phải tự sát, nhà vua biết bèn ngăn lại. Lại khi Thái hậu cho người lén bỏ thuốc độc vào món ăn uống của Trần thị, nhà vua biết ý của mẹ mình, vì vậy mỗi bữa ăn ông thường chia cho Trần thị một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Đủ mọi cách thất bại khiến Đàm Thái hậu không nhịn nữa, bà trực tiếp sai người đem thuốc độc bắt Trần thị phải uống, nhà vua phải can ngăn mãi mới thoát được."</i> Trước sự hà khắc, tàn nhẫn của Thái hậu, vào tháng 5 năm 1216, vua Lý Huệ Tông đưa vợ đang mang thai chạy trốn khỏi hoàng cung, lẻn đến chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh ở bãi Cửu Liên. Từ đấy Huệ Tông dựa vào họ Trần. Đón được nhà vua, Trần Tự Khánh bèn phế Nguyên vương mà mình đưa lên ngôi xuống làm&nbsp;Huệ Văn vương.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 12 năm 1216, Thuận Trinh phu nhân Trần thị được vua Lý Huệ Tông phong làm Hoàng hậu. Từ lúc đó, anh em, thân thuộc họ Trần chiếm hết các chức văn võ quan trọng trong triều: Trần Tự Khánh làm Thái úy, Trần Thừa được phong tước Liệt hầu làm nội thị phán thủ; con cả Tự Khánh là Trần Hải được phong tước Hiển Đạo vương, Trần Liễu (con cả Trần Thừa) được tước Quan nội hầu. Nắm quyền lớn trong tay, bằng đủ loại kế sách từ mỹ nhân kế tới chia rẽ nội bộ, chiêu hàng, đánh dẹp… tới năm 1223, về cơ bản Trần Tự Khánh đã bình định hầu hết các thế lực cát cứ chống triều đình, chỉ còn Nguyễn Nộn ở Bắc Giang và Đoàn Thượng ở Hồng Châu chưa trừ bỏ được hẳn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Giữa đường đứt gánh, tham vọng dở dang…</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 12 năm 1223, Trần Tự Khánh đột ngột qua đời ở Phù Liệt khi mới ở tuổi 40, không rõ vì nguyên do gì. Quyền bính trong triều được giao cho anh trai ông là Trần Thừa, người kế tục chức vị Thái úy và em họ ông là Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ. Có nguồn sử liệu ghi rằng trước đó, <i>“vào tháng 11 năm 1222, vua Lý Huệ Tông cùng Đàm thái hậu ngự ở điện Thiên An, con của Trần Tự Khánh là Hiển Đạo vương Trần Hải dâng nạp lễ vật cầu hôn Thuận Thiên công chúa”</i>. Người viết mạo muội cho rằng, tới năm 1222 có lẽ Trần Tự Khánh và họ Trần đã bắt đầu mưu tính chuyển giao ngai vàng. Tuy có em gái là Hoàng hậu nhưng không sinh được con trai, vua Huệ Tông mắc bệnh nặng lại chỉ có hai con gái là trưởng công chúa Thuận Thiên và nhị công chúa Chiêu Thánh (Nữ đế Lý Chiêu Hoàng sau này). Lúc bấy giờ việc anh chị em bên ngoại kết hôn với nhau là bình thường nên mặc dù cả Trần Hải và các công chúa đều còn nhỏ (Thuận Thiên mới 6 tuổi), Tự Khánh đã xin ban hôn để giành lấy vị trí trưởng phò mã cho Trần Hải. Đáng tiếc là việc chưa thành thì ông đột ngột qua đời, bỏ dở giữa đường sự nghiệp thống nhất đất nước lẫn tham vọng tiến tới ngai vàng của họ Trần. Tự Khánh chết thì con trai Trần Hải cũng mất đi chỗ dựa mà thất thế, mối hôn sự tốt đẹp với Trưởng công chúa cuối cùng rơi vào tay Trần Liễu, con trưởng của Trần Thừa mặc dù lúc đó Trần Liễu đã có chính thất. Từ đó về sau trong sử sách không còn thấy dòng ghi chép rõ ràng nào về Trần Hải cũng như hậu duệ của Trần Tự Khánh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Các sử gia thống nhất rằng: Xét toàn cục trong thời loạn lạc cuối nhà Lý, công dẹp Quách Bốc và các hào trưởng địa phương khiến họ Trần trở thành người thay thế họ Lý xứng đáng hơn cả; trong đó có sự đóng góp lớn nhất của Trần Tự Khánh. Quyền lực chính quyền trung ương lại dần dần tập trung, củng cố dưới sự lãnh đạo của họ Trần. Tình hình yên ổn và vị thế khá vững vàng của họ Trần trong triều tạo điều kiện cho Trần Thủ Độ sau đó thực hiện việc chuyển ngôi chính thức từ họ Lý sang họ Trần. Chẳng những cha con Trần Thừa, Trần Cảnh mà ngay cả Trần Thủ Độ cũng được thừa hưởng cơ nghiệp của ông để lại. Nói về sự kiện thay ngôi nhà Lý, "bàn tay" của Trần Thủ Độ được nhắc tới nhiều hơn cả, nhưng công lao "dọn chướng ngại" cho Thủ Độ hành động thuộc về Trần Tự Khánh.” (Trích Wikipedia)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Để nói về Trần Tự Khánh, người viết cho rằng gọi ông là anh hùng thời loạn, đội trời đạp đất, bình định thống nhất đất nước thì rất xứng đáng, mà nói ông là kẻ gian hùng không từ thủ đoạn chèn ép quân vương mưu đoạt hoàng quyền cũng chẳng hề sai. Đại nghiệp dở dang Trần Tự Khánh để lại đã được Trần Thừa cùng Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung hoàn tất trong hai năm sau khi ông qua đời. Có lẽ ở thời kỳ suy tàn của triều đại họ Lý thì sự xuất hiện của một nhân vật như Trần Tự Khánh là điều tất yếu để mở đường cho một triều đại mới đảm đương vai trò lãnh đạo đất nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-11-thai-to-tran-thua-ngoi-trong-man-truong-dinh-thoi-cuoc"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 11 Thái Tổ Trần Thừa: Ngồi Trong Màn Trướng Định Thời Cuộc</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ là một bước tiến công nghệ thuần túy; nó còn là một lực đẩy văn hóa mạnh mẽ đang định hình cách con người sáng tạo, giao tiếp và tồn tại trong thế giới hiện đại. Trong khi nhiều người xem AI là công cụ hỗ trợ công việc, tiết kiệm thời gian hay tạo ra trải nghiệm mới, ít ai ngờ rằng AI đang âm thầm thách thức những nền tảng giá trị văn hóa mà chúng ta vẫn coi là bất biến.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>1. AI trong sáng tạo văn hóa</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, AI có thể viết truyện, soạn nhạc, vẽ tranh, làm phim hoạt hình. Ví dụ, công cụ như DALL·E hay Midjourney cho phép bất cứ ai tạo ra hình ảnh chỉ bằng vài câu mô tả. ChatGPT có thể hỗ trợ viết kịch bản hoặc phát triển ý tưởng. Thoạt nhìn, điều này dường như giải phóng sức sáng tạo của con người, làm cho nghệ thuật trở nên dễ tiếp cận hơn. Một học sinh tiểu học cũng có thể tạo tranh như họa sĩ chuyên nghiệp; một nhà văn mới bắt đầu có thể viết truyện với sự trợ giúp của AI.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy nhiên, cũng có tranh luận gay gắt: nếu máy móc tạo ra tác phẩm, liệu đó còn là văn hóa của con người? Khi sản phẩm sáng tạo không còn dựa trên trải nghiệm cá nhân, mà được “ghép nối” từ hàng tỷ dữ liệu sẵn có, giá trị độc đáo và tính “người” có bị xói mòn? Có lẽ, câu hỏi này còn kéo dài trong nhiều thập kỷ tới.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>2. AI và bản sắc văn hóa</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>AI thường được đào tạo trên dữ liệu toàn cầu—phần lớn đến từ phương Tây. Do đó, khi AI tạo ra nội dung, nó dễ phản ánh thiên kiến văn hóa của các quốc gia giàu tài nguyên dữ liệu. Một người Việt Nam yêu cầu AI vẽ tranh Tết cổ truyền có thể nhận được hình ảnh mang nét Trung Hoa hoặc lẫn lộn chi tiết phương Tây. Bản sắc riêng dễ bị hòa tan vào “hỗn hợp toàn cầu”.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đây là thách thức lớn: Làm sao để AI “học” được sự tinh tế, đặc thù của từng nền văn hóa mà không làm mất đi tính đa dạng? Nhiều nhóm phát triển đang cố gắng xây dựng các mô hình “bản địa hóa”—AI nói tiếng Việt chuẩn, hiểu lễ nghi, truyền thống, tín ngưỡng. Nhưng điều đó đòi hỏi thời gian, nguồn lực, và sự đồng thuận xã hội.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>3. AI và quyền tác giả</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Văn hóa không chỉ là sản phẩm tinh thần mà còn là nền kinh tế khổng lồ. Nghệ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ sống nhờ bản quyền. Khi AI có thể tái tạo phong cách Picasso hay nhạc Beethoven trong vài giây, quyền sở hữu trí tuệ trở thành vấn đề nhức nhối. Nhiều quốc gia chưa kịp ban hành luật rõ ràng để bảo vệ tác giả trước cơn sóng dữ liệu và thuật toán.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhiều người đặt câu hỏi: tác phẩm do AI tạo ra có được coi là sở hữu trí tuệ không? Ai là tác giả: người dùng, lập trình viên, hay chính “trí tuệ” nhân tạo? Câu trả lời chưa dứt khoát, nhưng chắc chắn sẽ tác động sâu sắc đến hệ sinh thái sáng tạo.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>4. AI giúp bảo tồn văn hóa</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mặt khác, AI cũng mở ra khả năng bảo tồn những di sản tưởng đã mai một. Công nghệ xử lý ngôn ngữ có thể số hóa sách cổ, tự động dịch thuật, phục hồi các bức tranh hư hỏng. AI hỗ trợ nhận diện ký tự Hán Nôm, xây dựng từ điển điện tử, lưu giữ tiếng nói và phong tục dân gian. Đó là minh chứng AI không chỉ phá vỡ mà còn gìn giữ những giá trị tinh thần của loài người.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>5. Tương lai: Cộng sinh hay xung đột?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Văn hóa là dòng chảy sống động và không ngừng biến đổi. AI, dù quyền năng đến đâu, vẫn phản chiếu chính con người đã tạo ra nó. Nếu chúng ta lười biếng, phó mặc mọi thứ cho máy móc, sự lụi tàn sáng tạo là điều khó tránh. Nhưng nếu con người biết tận dụng AI như một người bạn đồng hành, khơi gợi ý tưởng và hỗ trợ hiện thực hóa trí tưởng tượng, thì AI sẽ trở thành chất xúc tác cho những nền văn hóa mới.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cộng sinh hay xung đột? Tương lai vẫn để ngỏ. Nhưng có một điều chắc chắn: trí tuệ nhân tạo sẽ không còn là “công nghệ thuần túy”, mà đã và đang trở thành một phần của đời sống tinh thần và văn hóa nhân loại.</p></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Tác giả uy tín
Phượng Tía Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Hậu thế nhiều người gọi Đàm Thái hậu là “Thái hậu tàn ác bậc nhất sử Việt” giết con riêng chồng, hạ độc con dâu đang mang thai cũng không hề sai. Tước vị của bà là An Toàn Hoàng hậu/Hoàng thái hậu song có lẽ cả cuộc đời bà sống trong bất an và chính bà cũng gây “mất an toàn” cho nhiều người khác. Ở Thái hậu có thể nói tốt xấu đan xen, thiện ác lẫn lỗn, chính tà khó phân và thường bị mang tiếng xấu trong mắt hậu thế. Song chúng ta cũng không thể phủ nhận tình mẫu tử mà bà dành cho con trai - vua Lý Huệ Tông là có thật.&nbsp;</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/56ba908b39c5c058f769de7335a5ee0fa798f62a04b8bcdf54a97e741ca8ab15.jpg"alt="Dam thai hau.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Từ con gái tướng quân tới Mẫu nghi chạy loạn</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>An Toàn Đàm Thái hậu là Hoàng hậu của vua Lý Cao Tông, mẹ vua Lý Huệ Tông. Bà là con gái của tướng quân Đàm Thì Phụng. Tháng 3 năm 1186, bà được Lý Cao Tông sách phong làm An Toàn Nguyên phi tức người vợ nguyên phối của vua. Lúc bấy giờ Cao Tông còn nhỏ, mới 13 tuổi. Tuy sử không chép rõ về hành trạng cũng như thế lực của cha bà, song có thể thấy bà đã sớm bước vào cuộc hôn nhân chính trị khi chồng bà còn chưa thành niên. Vua Cao Tông có nhiều phi tần nhưng ngôi hoàng hậu bỏ trống tới tận 8 năm sau, năm 1194 khi Nguyên phi hạ sinh đích trưởng tử Lý Hạo Sảm (tức vua Lý Huệ Tông), bà mới được sắc phong làm An Toàn Hoàng hậu. Khác với lệ thường của các vua đời trước sớm định ngôi Thái tử cho con trưởng, vua Cao Tông không lập Lý Hạo Sảm làm Hoàng thái tử ngay, mãi tới năm 1208 vua mới sách lập hoàng tử Sảm làm Hoàng thái tử (lúc này Thái tử đã 15 tuổi). Tư liệu còn lại tuy ít ỏi, song với những sự kiện đó người viết mạo muội cho rằng vua Lý Cao Tông cũng không mấy mặn mà với mẹ con bà nên mới có sự trì hoãn việc sách lập ngôi vị Hoàng hậu và định ngôi Thái tử nhiều năm như vậy.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử chép vua Cao Tông lên ngôi khi mới 3 tuổi, lúc trưởng thành bắt đầu trực tiếp cầm quyền trị nước vua lại sinh ra ham mê săn bắn, chính sự pháp luật không rõ ràng, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch nên trộm cướp nổi lên khắp nơi. Từ năm 1189 tới năm 1207 suốt 18 năm vua rong chơi vô độ, xây đền đài không ngớt làm cho dân chúng lầm than, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy yếu. Trong những tháng ngày đó, ở cạnh người chồng là một hôn quân như vậy, Đàm Hoàng hậu buộc phải dấn thân vào cuộc chiến chốn thâm cung để đảm bảo an toàn cho địa vị của mình cũng như giành lấy ngôi vị Trữ quân cho con trai mặc dù vốn dĩ con bà đã là dòng đích. Xuất thân là con gái tướng quân, lớn lên trong gia đình nhà binh có lẽ bà đã quen đối mặt với sinh tử, đã nằm lòng quy tắc “Mạnh được yếu thua”.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Một năm sau khi ngôi vị Thái tử được định thì vua Cao Tông mắc sai lầm nghiêm trọng khi nghe lời gian thần Phạm Du, xử oan tướng Phạm Bỉnh Di khiến cho thuộc hạ của Bỉnh Di là Quách Bốc bất bình, nổi loạn, đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Phạm Du liền giết cha con Phạm Bỉnh Di rồi cùng vua Cao Tông chạy trốn về Tam Nông (Phú Thọ). Trước tình thế loạn lạc, Thái tử Sảm cùng mẹ là An Toàn Hoàng hậu và hai em gái chạy về quê ngoại vùng Hải Ấp, Thái Bình rồi được Trần Lý, Tô Trung Từ phò tá. Quách Bốc đem quân vào nội điện thì cả vua Cao Tông và Thái tử Sảm đều bỏ trốn, liền tôn hoàng thứ tử là Lý Thầm mới 8 tuổi lên làm vua. Có thể thấy, trong lúc nguy cấp vua Cao Tông cũng chỉ kịp thoát thân mình chứ chẳng lo được chuyện an nguy của vợ con. Trước tình thế Quách Bốc tự lập vua mới, Trần Lý và Tô Trung Từ lập Thái tử Lý Hạo Sảm làm vua, tôn xưng Thắng vương. Thái tử cảm mến con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung bèn lấy làm vợ và phong chức tước cho Trần Lý cùng Tô Trung Từ, họ Tô và họ Trần có chính danh đem quân đánh dẹp Quách Bốc. Cuối năm 1209, loạn Quách Bốc bị dẹp, Trần Lý tử trận, Phạm Du chết, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông hồi cung. Đầu năm 1210, Cao Tông đau yếu, mới sai người đón Thái tử Sảm và Hoàng hậu cùng hai công chúa về kinh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Thái hậu chuyên quyền, thẳng tay tàn sát</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 10 năm 1210, vua Lý Cao Tông chết, Thái tử Sảm nối ngôi, tức vua Lý Huệ Tông, Đàm Hoàng hậu được tôn làm Hoàng Thái hậu. Lúc này vua Huệ Tông đã 17 tuổi. Sử chép Đàm Thái hậu là người cứng rắn, đích thân bà cùng Huệ Tông nghe chính sự, lại phong chú bà là Đàm Dĩ Mông làm Thái sư, cùng Thái hậu trông coi triều chính. Đàm Dĩ Mông là người không có học thức, lại nhu nhược thiếu quyết đoán, mọi việc do Đàm Thái hậu quyết định. Thái hậu là người chỉ nghĩ đến dòng họ và củng cố quyền lực nên không có chính sách gì đối với tình hình quốc gia mà chỉ gia tăng thế lực nhằm củng cố địa vị. Từ đó chính sự nhà Lý càng bất ổn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Triều đại của Lý Huệ Tông là giai đoạn chứng kiến những cuộc đấu đá tranh giành quyền bính, nội chiến liên miên giữa các thế lực quan chức trong triều và cát cứ địa phương: họ Tô, họ Trần, họ Đoàn, họ Nguyễn... Để xảy ra cục diện đó cũng bởi Thái hậu chỉ chăm chăm dùng ngoại thích họ Đàm nhưng người họ Đàm không có tài năng chính trị lẫn quân sự. Đây cũng là cảnh thường thấy trong các thời vua Lý cuối triều đại, khi ấu chúa lên ngôi, Thái hậu nhiếp chính đem quyền bính giao cho ngoại thích lặp lại từ các đời vua Lý Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông và cả Chiêu Hoàng. Có lẽ các Thái hậu vốn đi lên từ nội chiến hậu cung để giành lấy địa vị cho mình, ngai vàng cho con lại thiếu tầm nhìn toàn cục, thiếu tài trị quốc, họ chỉ là người mẹ lo giữ ngai vàng cho đứa con còn non nớt của mình nên họ chọn dựa vào người thân tin vào người nhà để rồi trao trọng trách cho những người không đủ tài đức làm đất nước ngày càng suy vi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đàm thái hậu cũng vậy, để tranh giành quyền lực, để giữ ngôi quân vương, bà thẳng tay diệt trừ bất cứ kẻ nào có khả năng ngáng đường cản trở. Theo một số tư liệu (ĐVSKTT không chép sự việc này), năm 1211, <i>“Đàm Thái hậu ngờ vực Trần Tự Khánh có ý phế lập ngôi vua. Bà bèn đem ba Hoàng tử; Nhân Quốc vương, Lục hoàng tử và Thất hoàng tử con của Cao Tông với các thị thiếp khác dìm đầu chết ở sau giếng trong cung. Rồi sai đem xác cả ba người vứt ra ngoài thành. Quần thần đều sợ Thái hậu không ai dám can. Thế là ngôi vị của Huệ Tông được giữ vững mà không sợ bị phế lập</i>.” Ở một góc nhìn khác, người viết cho rằng rất có thể chính từ cái “nhân” của sự việc tàn ác này mà dẫn đến “quả” về sau vua Huệ Tông không con nối dõi, có nét tương đồng với sự kiện Thái hậu Ỷ Lan bức tử Thượng Dương thái hậu và 72 cung phi, đoạt quyền nhiếp chính về sau vua Lý Nhân Tông tuy là bậc quân vương tài đức nhưng không có con nối dõi phải lập cháu trai nối ngôi. Bên cạnh đó việc Thái hậu tàn sát các em trai của vua đã đẩy Lý Huệ Tông vào thế ông vua cô độc, không có anh em giúp đỡ và có lẽ cũng làm suy giảm lòng trung thành của tôn thất Hoàng tộc với nhà vua.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vòng xoáy quyền lực là thứ mà một khi đã bước chân vào thì kẻ nào cũng bị cuốn theo. Đàm Thái hậu tin dùng ngoại thích họ Đàm nhà mình song rất ghét ngoại thích họ Trần nhà con dâu. Có thể bà ấy nhìn thấy nguy cơ soán ngôi vua của họ Trần song theo người viết thì phần nhiều là bà ấy thấy thế lực họ Trần ngày càng lớn vượt trội so với họ Đàm chẳng có lấy một người tài năng nên nhiều lần mưu tính diệt trừ Trần Tự Khánh. Nhưng dù Thái hậu và Vua chọn họ Đàm, ngả theo họ Đoàn hay dựa vào họ Nguyễn thì cả mấy lần đều thất bại trước họ Trần, khiến cho Thái hậu và Vua phải chạy loạn suốt mấy năm. Nhiều lần Trần Tự Khánh xin đón xa giá nhà vua nhưng Huệ Tông không đồng ý, bèn lập Huệ Văn vương, con của Lý Anh Tông làm vua mới, tôn xưng Nguyên vương song vẫn âm thầm tìm cơ hội thuyết phục Huệ Tông. Năm 1214, Trần Tự Khánh sau khi đánh thắng đối thủ, chiếm phá kinh đô, đốt sạch cung điện. Ngày Huệ Tông được Nguyễn Nộn đón về Thăng Long, vua phải dựng lều tranh để ở.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Khi yêu thương trở thành thuốc độc, tình mẫu tử trước bánh xe thời cuộc</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đầu năm 1216, Huệ Tông lại lập Trần Thị Dung (trước bị giáng xuống Ngự nữ) làm&nbsp;Thuận Trinh Phu nhân (lúc này phu nhân đã mang thai)<i>. “Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ vào Trần Thị Dung mà nói là bè đảng của giặc, bảo Huệ Tông đuổi bỏ đi; lại sai người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Huệ Tông biết bèn ngăn lại. Đàm Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh.” </i>Thái hậu vì ghét Trần Tự Khánh mà tệ bạc với Trần Thị Dung, vì yêu con trai, muốn giữ con trong tầm kiểm soát an toàn của mình mà quản hết việc triều chính, chi phối con trong mọi quyết định trị quốc và vì lo Huệ Tông bị ái tình sắc dục làm mờ mắt, bà sẵn sàng ra tay hạ độc con dâu cùng cả đứa cháu còn trong bụng mẹ. Mẫu thuẫn lên tới đỉnh điểm khi Đàm Thái hậu sai người cầm chén thuốc độc bắt Trần Thị Dung phải chết. Vua Huệ Tông ngăn lại không cho, rồi đêm ấy cùng với phu nhân lẻn đi đến chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh. Trưởng nữ của Huệ Tông là Thuận Thiên công chúa đã ra đời trong hoàn cảnh đẻ rơi trên đường như vậy. Có thể nói ở góc nhìn của Thái hậu bà ấy làm mọi cách mình có thể để bảo vệ con. Song bà quên mất rằng bà có tình mẫu tử với Huệ Tông thì vua cũng nặng tình phụ tử với con của mình. Bát thuốc độc bà ban cho con dâu là giọt nước tràn ly, đẩy con trai dứt ra khỏi vòng tay bà để bảo vệ vợ con. Từ đấy, Huệ Tông lại dựa vào Trần Tự Khánh và họ Trần. Tháng chạp, mùa đông cùng năm đó, Lý Huệ Tông chính thức sách lập Thuận Trinh Phu nhân Trần thị làm Hoàng hậu và phong tước cho anh em họ Trần nắm toàn bộ quyền bính trong triều. Cũng từ đó Đàm Thái hậu và họ Đàm biến mất trên chính trường. Những chuyện xảy ra sau đó quả thật đã giống như nỗi lo của Đàm Thái hậu. Ngoại thích họ Trần ngày càng lớn mạnh o ép cả vua Huệ Tông. Năm 1224, vua Lý Huệ Tông bị họ Trần ép nhường ngôi cho con gái, tức Lý Chiêu Hoàng rồi xuất gia với pháp danh Huệ Quang Đại sư. Theo một số tư liệu, Đàm Thái hậu đi cùng con trai ra ở chùa Phù Liệt tu hành.&nbsp; Năm 1225, Trần Thủ Độ và Trần Thừa dàn xếp cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức vua Trần Thái Tông, lập nên nhà Trần. Năm 1226, lo sợ lòng dân còn nhớ vua cũ, Trần Thủ Độ bức tử vua Lý Huệ Tông. Không có tư liệu nào nói rõ kết cuộc của Đàm Thái hậu ra sao, song người viết cho rằng có lẽ khi vua Lý Huệ Tông qua đời, Đàm Thái hậu cũng ra đi theo con trai mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Hậu thế nhiều người gọi Đàm Thái hậu là “Thái hậu tàn ác bậc nhất sử Việt” giết con riêng chồng, hạ độc con dâu đang mang thai cũng không hề sai. Tước vị của bà là An Toàn Hoàng hậu/Hoàng thái hậu song có lẽ cả cuộc đời bà sống trong bất an và chính bà cũng gây “mất an toàn” cho nhiều người khác. Ở Thái hậu&nbsp; có thể nói tốt xấu đan xen, thiện ác lẫn lỗn, chính tà khó phân và thường bị mang tiếng xấu trong mắt hậu thế. Song chúng ta cũng không thể phủ nhận tình mẫu tử mà bà dành cho con trai - vua Lý Huệ Tông là có thật. Mặc dù bà yêu con, bảo vệ con sai cách, tình yêu bà cho con lẫn vào cả thuốc độc nhưng có lẽ ở thời điểm đó, trước thế cuộc đó bà cũng đã cố hết sức mình để suy tính, để làm điều mà bà nghĩ là tốt cho con mình. Tình yêu sai lầm ấy dẫn đến kết cục không những không thể cứu vãn mà ngược lại, còn đẩy con bà vào cảnh khốn cùng nhanh hơn. Mà cũng có thể những chuyện đã xảy ra là không thể tránh khỏi ở giai đoạn chuyển giao từ một triều đại đã nhiều năm suy tàn sang một triều đại mới.<b></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:&nbsp;</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-10-kien-quoc-dai-vuong-tran-tu-khanh-anh-hung-hay-gian-hung"><div class="link-title">Nữ Đế Chuyện Chưa Kể: Kỳ 10 Kiến Quốc Đại Vương Trần Tự Khánh: Anh Hùng Hay Gian Hùng?</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhân dịp Ngày hội Âm nhạc (Fête de la musique) 21/6 của Pháp, ad xin chia sẻ lại một bài viết chi tiết về những « kiosque à musique » (tạm dịch: chòi nhạc) mà người Pháp đã cho xây dựng tại Việt Nam cách đây hơn 100 năm – những công trình nhỏ nhưng mang ý nghĩa rất lớn trong câu chuyện lịch sử, quy hoạch đô thị và giao lưu văn hóa.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/75f044a53773539a37e1bb4b7a583e4d5e19698cf14784cfceae9e173167b172.jpg"alt="486124836_1052045206966485_4598701637466877809_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày 21/6 hằng năm, khắp nước Pháp và nhiều thành phố trên thế giới đều náo nhiệt với Fête de la musique – Ngày hội Âm nhạc. Đây không chỉ là một lễ hội, mà còn là một lời mời công khai: “Hãy mang âm nhạc ra đường phố!”. Tinh thần của ngày hội là bất cứ ai cũng có thể chơi nhạc, nghe nhạc, hòa mình vào không gian mở – không vé, không rào chắn, không giới hạn giữa chuyên nghiệp và nghiệp dư. Âm nhạc trở thành món quà chung, làm mềm đi những khoảng cách xã hội và biến quảng trường, công viên, góc phố thành những sân khấu sống động.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/53ec4b6c65164e1f5d68dbab9da407beef8c4cda371e7c94cb96ab2fee8775e1.jpg"alt="486362394_1052045213633151_2922570899353712040_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ý tưởng ấy thực ra không phải mới ngày nay mới có. Ở Pháp từ thế kỷ 19, khái niệm kiosque à musique (chòi nhạc) đã xuất hiện như một phần thiết yếu trong quy hoạch thành phố hiện đại. Những chòi nhạc được xây dựng ngay tại công viên, quảng trường, bến tàu, lối đi dạo – vừa làm điểm nhấn mỹ thuật, vừa là sân khấu ngoài trời để các ban nhạc quân đội hoặc dân sự phục vụ công chúng. Âm nhạc trở thành một “dịch vụ công” – dễ tiếp cận, không mất tiền, lan tỏa tinh thần cộng đồng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Khi mở rộng thuộc địa, người Pháp đã mang luôn triết lý này đến những thành phố họ cai trị. Từ Bắc Phi, Tây Phi, cho đến Đông Dương – chòi nhạc được dựng lên như một biểu tượng của quy hoạch hiện đại, trật tự và cả tham vọng “văn minh hóa” thuộc địa theo chuẩn Pháp. Nhưng đồng thời, nó cũng vô tình mở ra những không gian mới cho sự giao thoa văn hóa: nơi người bản xứ lần đầu nghe kèn đồng châu Âu, nhạc hành khúc, waltz, polka; nơi những nhạc công Việt học ký âm, nhạc lý Tây phương; và sau này tạo ra lớp nhạc sĩ Việt tiên phong trong tân nhạc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở Sài Gòn – thành phố được Pháp quy hoạch để trở thành “Hòn ngọc Viễn Đông” – mô hình chòi nhạc cũng được áp dụng khá sớm. Nguồn tư liệu cũ và lời kể dân gian vẫn nhắc đến ít nhất ba chòi nhạc nổi bật từng tồn tại:</p></div><div class="block-wrapper" type="list"><ul list-style="unordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Ngã tư Nguyễn Huệ – Lê Lợi, trung tâm hành chính – thương mại tấp nập </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Bên trong Thảo Cầm Viên, công viên sinh học – giải trí lâu đời nhất </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Trong khuôn viên công viên Tao Đàn, lá phổi xanh của thành phố </div></li></ul></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Những chòi nhạc này không chỉ đơn thuần là nơi dựng mái che cho ban nhạc. Chúng là sản phẩm của một tầm nhìn quy hoạch: công viên và quảng trường không chỉ để đi dạo, mà còn là không gian thưởng thức nghệ thuật, nơi chính quyền thuộc địa muốn “dạy” người dân địa phương thói quen văn minh, theo nghĩa Pháp. Âm nhạc quân đội Pháp – vốn được cải cách nhờ sáng chế kèn đồng của Adolphe Sax từ 1845 – vang lên trong công viên Sài Gòn, Hà Nội không chỉ để giải trí mà còn để truyền bá văn hóa Pháp và củng cố quyền lực mềm.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/6200832ef11088b38e36eed39dec9d04cedb635596255a171caf013d42f21412.jpg"alt="486106649_1052045016966504_6371508517657346399_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhưng câu chuyện không dừng ở đó. Qua thời gian, các chòi nhạc trở thành ký ức tập thể – nơi cha mẹ từng dắt con đi nghe nhạc kèn, nơi thanh niên lần đầu nghe những giai điệu Tây phương, nơi nhen nhóm ước mơ âm nhạc và cả phản tỉnh về quan hệ thuộc địa. Dù nhiều chòi nhạc xưa đã mất dấu, hình ảnh của chúng vẫn còn trong những tấm bưu thiếp cũ, trong ảnh tư liệu, và trong hồi ức người Sài Gòn.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/9d04aa82595cb2e8d7ab85b2ce53d20b1ffcc751585ebdb0d8e7993ee3aded6a.jpg"alt="486106649_1052045016966504_6371508517657346399_n.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhân Ngày hội Âm nhạc 21/6 – khi tinh thần mở cửa, sẻ chia âm nhạc một cách tự do và đại chúng lại được nhắc nhớ – mời mọi người cùng đọc tiếp bài viết dưới đây để nhìn lại câu chuyện những kiosque à musique ở Việt Nam. Một mẩu kiến trúc nhỏ nhưng chất chứa lịch sử đô thị, văn hóa và quyền lực mềm, đồng thời gợi cho chúng ta hôm nay suy nghĩ: làm thế nào để giữ gìn, tái tạo những không gian âm nhạc công cộng – nơi mọi người đều có quyền thưởng thức và cùng nhau tạo ra âm nhạc, không phân biệt địa vị, tuổi tác hay nguồn gốc.</p></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Tác giả uy tín
Phượng Tía Tác giả uy tín
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Làm bạn với vua như đùa với hổ”</i>, đó là câu nói người xưa truyền lại bao đời, qua hàng ngàn năm khi nhắc đến mối quan hệ quân thần. Càng ở gần vua, thân cận với hoàng đế thì quyền lực càng cao, vinh hoa phú quý càng nhiều mà cũng &nbsp;dễ “mất mạng như chơi” không chừng. Quả thực đã có biết bao tấm gương người xưa tích cũ là minh chứng hùng hồn cho câu nói đó. Ấy thế mà, trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam lại có một mối giao hảo quân thần vượt lên lời nhắc nhở thâm sâu kia, đó chính là giao tình giữa vua Trần Thái Tông và Bảo Văn Hầu Lê Tần (được vua ban tên Lê Phụ Trần). Có thể nói cả cuộc đời mình, Lê Tần đã làm bạn với vua như người tri kỷ.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/c111052047a0659da108aeb609fa2d4a01a601fefa7b2d7019d4b59a9dcfe570.jpg"alt="17 Le Phu Tran.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Thần tử dám nói, Thiên tử dám nghe</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lần đầu tiên tên vị danh tướng Lê Tần xuất hiện trong sử sách là ở sự kiện năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 19 (1250), vua Trần Thái Tông cho đặt Ngự sử đài là cơ quan chuyên làm công việc giám sát triều đình, can gián nhà vua, thanh tra, tố giác sai phạm của quan lại nhằm giữ vững kỷ cương phép nước. Bấy giờ vua cho Lê Tần làm Ngự sử trung tướng, tri Tam ty viện sự. Với tính chất công việc đặc thù như vậy, những viên quan được chọn vào Ngự sử đài là những người cương trực, thẳng thắn, dám nói thẳng, nói thật. Ai cũng hiểu, việc vạch ra cái sai, cái xấu, cái đáng phê phán của quan lại đồng liêu là việc dễ gây thù, chuốc oán nhất là đối với các viên quan có địa vị cao hơn mình, rất dễ gánh lấy hậu quả bị trù dập, hãm hại. Vạch cái sai của các quan còn thế, vạch cái sai của các bậc vua chúa quyền uy tối thượng tất nhiên là nguy hiểm hơn nhiều, chẳng khác gì vuốt râu hùm. Những&nbsp; chuyện trung lương nói thẳng, nói thật mà bị cách chức, bị đuổi về quê là diều không hề hiếm bởi “trung ngôn nghịch nhĩ”. Nhưng trách nhiệm của Ngự sử đài là phải nói, phải phản biện trước những lời nói, việc làm, những quyết định trái với kỷ cương phép nước, các quan làm việc ở Ngự sử đài không thể im lặng, cho qua. Bởi nếu như thế thì chính các quan Ngự sử sẽ bị đàn hặc (tố cáo) lại, vì không hoàn thành nhiệm giám sát, can gián.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Bấy giờ, vua Trần Thái Tông 33 tuổi, xét theo các sự kiện về sau người viết đồ rằng, vị quan Ngự sử Lê Tần cũng tầm trên dưới trạc tuổi với vua. Sử chép, Lê Tần xuất thân dòng dõi con cháu vua Lê Đại Hành, quê ở Ái Châu. Không có nhiều thông tin về hành trạng của ông trong chính sử, song để được nhà vua giao chức trách ở cơ quan mới thành lập lại làm công việc đầy thách thức ở Ngự sử đài, chắc hẳn nhà vua rất xem trọng tài năng, khí khái, đức độ và lòng trung thành của Lê Tần. Những sự kiện về sau cũng cho thấy ông hoàn toàn xứng đáng với sự tin tưởng của vua Trần Thái Tông.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vào tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt chống Nguyên Mông lần thứ nhất nổ ra. Quân Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Ngột Lương Hợp Thai theo đường từ Vân Nam (Trung Quốc) xuôi xuống sông Hồng tràn vào nước ta. Vua Trần Thái Tông thân hành đốc chiến đụng độ với giặc lần đầu tại Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc ngày nay) vào ngày 12 tháng 12 âm lịch . Sử chép nhà vua và tướng lĩnh đã chiến đấu rất cam đảm, nhưng không thể đánh bại quân Mông Cổ (đội quân đã gieo rắc kinh hoàng cho toàn thế giới lúc bấy giờ). Khi đội quân nhà Trần thất thế, quan quân hơi núng, chỉ có Lê Tần một mình một ngựa, ra vào trận giặc, sắc mặt bình thản như không. Lúc ấy, có người khuyên vua ở lại tử thủ nhưng Lê Tần cố sức can rằng: "<i>Như nay mà ở lại chỉ là bệ hạ dốc túi đánh nước cuối cùng thôi. Hãy nên tạm lánh đi, chớ nên dễ dàng tin lời người ta!</i>" Vua Trần Thái Tông nghe theo, cho lui binh, Lê Tần đi sau cùng để vén quân. Cương mục chép: <i>“Lúc ấy quân Mông Cổ đuổi gấp, bắn tên tứ tung, Phụ Trần lấy cái sạp thuyền che đỡ cho nhà vua được thoát nạn."</i>&nbsp; Qua vài dòng ngắn ngủi sử sách ghi lại, chúng ta có thể thấy Lê Tần không chỉ là dũng tướng can trường mà còn giỏi thao lược, biết người biết ta, trước thế giặc mạnh ông rất dũng cảm đem lời chính trực khuyên can nhà vua lui binh để bảo toàn lực lượng. Họ Trần vốn mang tinh thần thượng võ, gây dựng cơ đồ từ nghiệp nhà binh, đây lại là trận đánh đầu tiên vua thân chinh cự địch nên khó tránh khỏi tâm lý quan quân muốn giành chiến thắng. Nhưng kẻ địch lúc đó quá mạnh, vó ngựa thiện chiến của quân Mông Cổ đã đạp đổ bao nhiêu thành trì, tiêu diệt rất nhiều quốc gia. Về cơ bản tại trận đầu, quân Đại Việt không phải là đối thủ ngang sức với chúng. Nếu như Lê Tần dám thẳng thắn nói lời “nghịch nhĩ” thì vua Trần Thái Tông cũng là minh quân sáng suốt, biết lượng sức mình, đánh giá đúng tình hình và quyết định nghe theo kế sách vẹn toàn. Từ trận Bình Lệ Nguyên, Trần Thái Tông đã xem Lê Tần là tướng lĩnh thân cận, là vị quân sư vua hết mực tin tưởng. Để thoát khỏi tình thế nguy cấp, nhà vua và bộ chỉ huy quyết định thực hiện kế “vườn không nhà trống” di tản lực lượng và dân chúng rời khỏi kinh đô Thăng Long, và lui về sông Thiên Mạc (Hưng Yên) Lê Phụ Trần theo vua bàn những vấn đề cơ mật, hầu như không người nào được nghe.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Quân Mông Cổ chiếm được kinh thành Thăng Long, nhưng gặp phải kế thanh dã, kinh thành trống không chẳng có gì cho chúng vơ vét.&nbsp; Do thiếu lương thực trầm trọng, chúng phải chia quân đi cướp bóc ở vùng ngoại vi và phụ cận nhưng bị nhân dân Đại Việt chặn đánh quyết liệt. Quân Mông Cổ chịu tổn thất nặng nề. Trong khi đó, quân chủ lực Đại Việt đã được chỉnh đốn và hồi sức sau thất bại đầu tiên. Tới ngày 24 tháng 12 năm đó, vua Trần Thái Tông cùng Thái tử Trần Hoảng thúc quân phản kích vào bến Đông Bộ Đầu, đánh tan quân Mông Cổ buộc chúng&nbsp;phải rút quân khỏi Thăng Long và tháo chạy về Vân Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Người bạn san sẻ nỗi lòng Đế vương</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau ngày quân dân Đại Việt ca khúc khải hoàn trở lại Thăng Long, Đại Việt sử ký toàn thư chép “<i>Năm 1258, mùa xuân tháng Giêng, ngày mồng 1, vua Trần Thái Tông định công phong tước, ban tên cho Lê Tần là Lê Phụ Trần, phong làm Ngự sử đại phu, tước Bảo Văn hầu; lại đem Chiêu Thánh công chúa gả cho. Thái Tông nói: "Trẫm không có khanh, thì làm gì được có ngày nay. Khanh hãy cố gắng để cùng hưởng phúc về sau".” </i>Cũng trong tháng Giêng, vua sai Lê Phụ Trần và Chu Bác Lãm sang sứ nhà Nguyên.<i> “Khi ấy sứ Nguyên sang đòi của dâng hàng năm, tăng thêm vật cống. Bàn tính phân vân không quyết định, vua sai Lê Phụ rần sang sứ, Bác Lãm làm phó, rốt cuộc định 3 năm một kỳ cống làm lệ thường.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng sau, vào<i> “ngày 24 tháng 2, vua Trần Thái Tông truyền ngôi cho Hoàng thái tử Trần Hoảng (tức vua Trần Thánh Tông) và lui về cung Thánh Từ làm Thái thượng hoàng.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Việc Trần Thái Tông ban cho Lê Tần tên “Phụ Trần” mang ý nghĩa công thần phò tá nhà Trần là sự ghi nhận công lao to lớn của ông trong cuộc chiến chống Nguyên Mông giúp vua giữ nước. Đó cũng là lời nhắn nhủ tới vị trung thần, người bạn tâm giao gắng sức phò trợ, đồng hành cùng quân vương. Lê Tần không có xuất thân hoàng tộc nhưng có thể nói vua đã xem ông như người thân thích. Thế nhưng quyết định đem vợ cũ của vua là Chiêu Thánh công chúa ban hôn cho công thần Lê Tần không tránh khỏi việc vấp phải rất nhiều tranh cãi, gièm pha và dị nghị của người đương thời lẫn các sử gia hậu thế. Có lẽ chỉ có Phụ Trần là người khiến nhà vua an tâm, tin tưởng để gửi gắm Lý Chiêu Hoàng, người vợ mà vua nợ cả cuộc đời. Và cũng chỉ có Phụ Trần mới có đủ bản lĩnh, đủ tài đức để gánh vác mối hôn sự khác thường, kết duyên với người con gái từng là Nữ đế tiền triều, từng là Hoàng hậu rồi thành phế hậu bị giáng làm công chúa triều Trần. Bởi cuộc hôn nhân của Lê Tần với Lý Chiêu Hoàng đặc biệt như vậy nên hậu thế cũng có người dệt nên áng ngôn tình như Lê Tần yêu thầm Nữ đế đã nhiều năm hay là đặt ra giả thuyết có lẽ ở tuổi tứ tuần Lê Tần goá vợ nên vua se duyên với Chiêu Hoàng. Song cá nhân người viết thì không cho là như vậy. Nhớ rằng, năm 1258 Thái sư Trần Thủ Độ còn tại thế, hẳn nhiên ông ấy không bao giờ để cho người từng là Nữ đế Lý triều có cơ hội tiếp xúc với người khác chứ đừng nói tới quan lại hay trọng thần triều đình. Và mối hôn sự do Trần Thái Tông ban để có thể diễn ra thì chắc chắn đã có sự đồng thuận của Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu (mẹ của Lý Chiêu Hoàng). Ở thời điểm đó, có lẽ Thái sư nhận định mối hôn sự này không gây ra rủi ro gì cho cơ đồ của họ Trần. Chiêu Thánh công chúa tái giá là có cơ hội rời khỏi hậu cung thoát khỏi cảnh cô độc suốt hơn 20 năm và được sống tự do bên ngoài. Công chúa lấy chồng đương nhiên sẽ là chính thất, thế nên nếu Lê Tần đã có vợ con cũng không ảnh hưởng gì tới vị thế đương gia chủ mẫu của công chúa (giống như Trần Liễu khi kết hôn với Thuận Thiên công chúa đã tự thu xếp chuyện nhà để nguyên phối Trần Thị Nguyệt xuống làm thiếp thất). Lê Tần không phải người họ Trần, nhưng khi kết hôn với công chúa thì thành phò mã, trở thành người trong Hoàng thất. Với địa vị Phò mã tước Bảo Văn hầu, đảm nhận chức Ngự sử đại phu Lê Phụ Trần có đủ chính danh lẫn tư cách dẫn đầu phái đoàn Đại Việt sang sứ nhà Nguyên. Cũng lại có người đưa ra suy luận biết đâu chuyện ban hôn đó lại mở ra một lối khác cho mối duyên tình dang dở của nhà vua khi mà ngay sau khi ban hôn, Trần Thái Tông nhường ngôi cho con lui về làm Thái thượng hoàng đương lúc còn trẻ (mới chỉ 40 tuổi). Sau khi nhường ngôi, Thượng hoàng thường ở phủ Thiên Trường (Nam Định) hoặc am Thái Vi tại hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), khi có việc mới trở về kinh sư. Đúng hay sai chỉ người trong cuộc mới rõ, nhưng dù là giả thuyết nào thì ta cũng thấy rõ Lê Tần không chỉ phò vua trị quốc mà còn giúp vua san sẻ cả những mối bận tâm, những nỗi niềm riêng khó lòng bày tỏ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đại Việt sử ký toàn thư chép <i>“công chúa Chiêu Thánh ở với Lê Phụ Trần hơn 20 năm sinh được hai người con là Thượng vị hầu Lê Tông và Ứng Thuỵ công chúa Lê Ngọc Khuê.”</i> Trước đó toàn thư cũng có đoạn “<i>Năm Tân Sửu (1241) hoàng tử thứ ba là Quang Khải sinh, là em cùng mẹ với thái tử Hoảng, Quốc Khang là anh trưởng, sau đều phong Đại vương; thứ nhất Nhật Vĩnh, Ích Tắc, Chiêu Văn đều phong vương; rồi các con thứ nữa thì phong Thượng vị hầu. Con trưởng của các vương thì phong vương, các con thứ thì phong Thượng vị hầu, lấy làm chế độ vĩnh viễn</i>”. Ấy vậy mà con trai của Lê Phụ Trần (chỉ mang tước hầu) lại được phong là Thượng vị hầu, con gái được phong Ứng Thuỵ công chúa, tương đương với tước dành cho con của vua và vương. Điều này cho thấy hẳn là còn nhiều điều ẩn giấu đằng sau những dòng sử. Người viết mạo muội suy đoán rằng, rất có thể là Thượng hoàng Trần Thái Tông đã nhận hai con của Lê Tần và Chiêu Thánh công chúa làm nghĩa tử, nghĩa nữ nên mới có tước phong như vậy. Sách không chép rõ nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đồng thuận Lê Tông sau này được ban quốc tính, chính là Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng – vị tướng quân nhà Trần nổi tiếng với câu nói “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” đã anh dũng hy sinh khi còn trẻ trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 (năm 1285). Trần Bình Trọng cũng chính là ông ngoại của vua Trần Minh Tông sau này.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Võ tướng thao lược, thiếu sư toàn tài</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lê Phụ Trần là trọng thần dưới 3 triều vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông, thế nhưng những ghi chép về ông trong chính sử quả thật rất ít ỏi. Từ sau sự kiện kết hôn với Lý Chiêu Hoàng, chỉ có 2 lần Lê Tần được nhắc tới:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Tháng 6 năm 1259, vua Trần Thánh Tông giao cho Lê Phụ Trần làm Thủy quân đại tướng quân.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Đến tháng 12 năm 1274, vua Trần Thánh Tông phong ông làm Thiếu sư, kiêm Sừ cung giáo thụ tức là thầy dạy cho Hoàng thái tử Trần Khâm (vua Trần Nhân Tông).”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử gia Ngô Sĩ Liên dù từng bình phẩm rất khắt khe về sự việc ban hôn nhưng cũng đánh giá rất cao tài năng&nbsp; của ông: <i>"Lê Phụ Trần… dũng lược đứng đầu ba quân, một mình một ngựa xông pha trong lúc gian nguy, mà tài văn học của ông đủ để dạy bảo thái tử".</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau khi Chiêu Thánh công chúa Lý Thiên Hinh qua đời năm 1278, không còn ghi chép nào về Lê Tần nữa. Đó có lẽ cũng là sự thiệt thòi của một vị danh tướng công thần như ông khi gánh vác vai trò rất đặc biệt và khá nhạy cảm trong lịch sử. Song cứ nhìn vào sự nghiệp 3 đời quân vương ông phò tá, nhìn vào người học trò của ông Trần Nhân Tông 2 lần đánh thắng quân Nguyên Mông rồi xuất gia trở thành Phật hoàng sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, nhìn vào người con trai danh tướng sa trường quyết tử vì Tổ quốc Trần Bình Trọng, cũng đủ để hậu thế chúng ta thấy được Bảo Văn hầu Lê Phụ Trần đã sống và cống hiến trọn vẹn một đời cho triều đại Đông A hào hùng, cho sự nghiệp bảo vệ dân tộc để Đại Việt quốc thái dân an.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-9-an-toan-dam-thai-hau-vi-dau-nen-noi"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 9 An Toàn Đàm Thái Hậu: Vì Đâu Nên Nỗi?</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
henry nguyen Nhà phân tích
henry nguyen Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Rừng Tân Hòa, tháng 8 năm 1864.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tiếng chân binh lính triều đình vọng qua rừng thưa. Trương Định ngồi dựa lưng vào gốc cây dầu già, vai rướm máu, bàn tay nắm chặt thanh gươm đã từng chém ngang mấy trận địa quân Pháp. Ông biết mình bị phản. Triều đình Huế – nơi từng phong ông là “Bình Tây Đại Nguyên Soái” – giờ lại ra lệnh truy nã.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Đất mất, danh còn. Thà chết trong rừng còn hơn ra hàng,” ông thầm nghĩ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Gươm giơ lên. Mắt khép lại. Chỉ cần một nhát.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Soạt! Không khí phía sau ông chấn động như bị xé toạc. Một vệt sáng xanh rạch qua lòng đêm như một vết nứt trên vải trời. Năm bóng người từ trong đó bước ra, im lặng, như thể đã chờ đợi giây phút này hàng trăm năm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người đứng đầu, mang kính lạ, giọng đều như máy: – Điểm xoay xác lập. Đối tượng lịch sử đang chuẩn bị tự hủy. Can thiệp ngay.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người cuối cùng tháo kính, bước tới. Mắt xanh xám, tóc vàng sẫm, gương mặt trắng nhợt nhưng ánh nhìn rắn rỏi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>– “Ngài Trương Định. Dừng lại.” – “Ngươi là ai?” – “Tôi là Jean Morel. Hậu duệ của những kẻ khiến dân ngài phải cầm gươm. Nhưng tôi không đến để lặp lại quá khứ. Tôi đến… để sửa nó.”</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Rừng Không Có Trong Bản Đồ</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau đêm đó, Trương Định biến mất khỏi mọi tin báo. Người ta đồn ông đã tuẫn tiết. Nhưng trong bóng tối của rừng Long Phước, ông đang sống – và lãnh đạo.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Jean và những người đi cùng không tiết lộ thân phận. Họ chỉ nói một điều: “Nếu ngài muốn kháng cự lâu dài, hãy thay đổi cách nhìn về chiến thắng.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không còn lập đồn – ông xây trạm quan sát bằng tre nứa, chôn ống tre dưới đất để truyền tín hiệu bằng hơi, theo cách mà Jean chỉ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Không còn chỉ chém giặc – ông dạy dân học chữ, học canh tác vòng tròn, phân phối lương thực thông minh, chữa bệnh bằng lá kết hợp khoáng chất.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Jean mang theo một thiết bị giống chiếc đồng hồ. Nó phát sáng mỗi lần ông bấm, và chiếu ra một bản đồ Việt Nam đầy những dấu mốc đỏ – những “ngã rẽ lịch sử” mà họ có thể sửa được nếu đủ thời gian.</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Những Đêm Trò Chuyện Trong Rừng</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Jean và Trương Định thường ngồi bên nhau khi dân đã ngủ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Một đêm, Trương Định hỏi:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>– “Nếu thật như lời ngươi nói, tương lai nước này sẽ ra sao?” Jean im lặng, rồi nói: – “Có lúc, sẽ chia đôi. Có lúc, sẽ có máu đổ giữa chính đồng bào. Có lúc, dân ngài phải bỏ quê mà đi. Nhưng cũng có lúc… những đứa trẻ nơi đây sẽ bay lên vũ trụ. Và sẽ có người mang họ Trương làm giáo sư, không phải nghĩa sĩ.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trương Định nhìn lên trời. Gió rừng thổi qua râu tóc ông. – “Ta không cần nước bay lên vũ trụ. Ta chỉ cần dân mình không cúi đầu khi gặp người ngoại quốc.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Jean cười, nhẹ: – “Vậy thì ta giống nhau.”</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>Cuộc Mất Tích Và Kết Thúc Mở</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1868, một cơn bão lớn đổ vào Đông Nam Bộ. Lũ cuốn. Sạt núi. Cây rừng đổ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sáng hôm sau, nhóm người từ tương lai biến mất – chỉ còn Jean ở lại.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Anh sống như một người Việt. Học tiếng Nôm. Trồng thuốc. Chữa bệnh cho trẻ nhỏ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1873, trong một lần bệnh nặng, Jean giao lại cho học trò của Trương Định một cuốn sách viết bằng ba loại chữ – Nôm, Pháp và ngôn ngữ chưa ai giải mã. Trang cuối ghi:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>"Chúng tôi không thay đổi lịch sử. Chúng tôi chỉ đặt thêm những hạt giống nhỏ. Khi nào nở hoa – là quyền của đất này."</p></div><div class="block-wrapper" type="delimiter"><hr /></div><div class="block-wrapper" type="header"><h3>100 năm sau...</h3></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Một nhóm khảo cổ sinh viên trường Sử học TP.HCM khai quật tại Long Phước, tình cờ phát hiện một ống đồng được chôn sâu dưới đất, trong đó là tấm bản đồ Việt Nam… nhưng không giống bản đồ nào từng được lưu trữ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong bản đồ ấy:</p></div><div class="block-wrapper" type="list"><ul list-style="unordered" class="list-items list-items-parent"><li class="list-item"><div class="item-content">Không có cột mốc chia đôi đất nước. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Không có chiến tranh Đông Dương. </div></li><li class="list-item"><div class="item-content">Có một dòng sông mang tên "Sông Định", đổ ra từ vùng đất từng gọi là Gò Công. </div></li></ul></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở góc bản đồ, khắc bằng tay một câu bằng tiếng Pháp:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>"Ce n'était qu'une possibilité. Mais peut-être... elle existe ailleurs." (Đó chỉ là một khả năng. Nhưng có lẽ… nó tồn tại ở một nơi nào khác.)</p></div>