NỮ ĐẾ- CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 5- Thái Tông Trần Cảnh: Muôn vị nhân gian

Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên

Có thể nói muôn vị nhân gian, ngọt ngào, mặn chát, đắng ngắt, cay nồng, thơm bùi, ân oán tình thù, tình yêu và gia tộc, chiến tranh và hoà bình, danh lợi phù hoa và thong dong tự tại, cuộc đời của Thái Tông Trần Cảnh đều nếm trải. Trần Thái Tông được ca ngợi là ông vua thiền sư xuất sắc của Đại Việt đã có công kiến tạo nên thế hệ kiệt xuất tiếp theo của dòng máu Đông A anh hùng.

5. Thai Tong Tran Canh muon vi nhan gian 5718.jpg

(Nguồn ảnh: Comet Withhouse)

NGỌT…

Trong số những đứa trẻ Hoàng tộc họ Lý và Trần gia lúc bấy giờ, có lẽ Trần Cảnh là đứa trẻ may mắn nhất. Sinh ra trong gia tộc hào trưởng, không phải lớn lên trong thời buổi loạn lạc nhất như người anh cả Trần Liễu, lúc Trần Cảnh chào đời (tháng 7 năm 1218 âm lịch), họ Trần đã có vị thế vững chắc trong triều đình của vua Lý Huệ Tông. Khi người chú Trần Tự Khánh qua đời (năm 1223), cha của Cảnh là Trần Thừa trở thành người đứng đầu gia tộc, Trần Thừa cùng với Trần Thủ Độ nắm mọi quyền bính trong triều.

Ngày Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái nhỏ là Chiêu Thánh công chúa để xuất gia (năm 1224) đánh dấu bước ngoặt tuổi thơ của cậu bé 7 tuổi. Thay vì như toan tính của họ Trần đã sắp đặt để vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con rể trưởng Phụng Càn Vương Trần Liễu, lúc này 15 tuổi, là phò mã của trưởng công chúa Thuận Thiên, thì vua Huệ Tông lại đảo lộn Càn Khôn và nhường ngôi cho con gái út. Chiêu Thánh lên ngôi tức Nữ đế Lý Chiêu Hoàng, họ Trần nhanh chóng thay đổi kế sách bằng cách đưa một loạt nam nhi con cháu họ Trần vào cung để hầu hạ Nữ đế. Trong số đó, Trần Cảnh được Trần Thủ Độ tiến cử làm Chi hậu chính chi ứng cục hầu hạ kề cận Chiêu Hoàng. Trần Cảnh cùng tuổi với nữ đế, là anh em họ gần (Trần Cảnh là cháu gọi thái hậu Trần Thị Dung mẹ của Chiêu Hoàng là cô ruột) lại có bản tính hiền lành nên được Chiêu Hoàng quý mến, cùng chơi. Họ Trần đã lợi dụng điều này để dàn xếp hôn nhân giữa 2 đứa trẻ 7 tuổi Chiêu Hoàng và Trần Cảnh. Tới cuối năm 1225, họ Trần hoàn tất bước đi cuối cùng: Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng, Trần Cảnh trở thành vị vua đầu tiên khai mở triều Trần, tự xưng là Thiện Hoàng, sau đổi thành Văn Hoàng tức Trần Thái Tông. Trần Thái Tông lên ngôi tuổi còn thơ ấu (8 tuổi), sau khi Trần Thủ Độ bức tử nhạc phụ vua là Thượng hoàng Lý Huệ Tông, cha vua là Trần Thừa được tôn làm Thượng hoàng, nhiếp chính cho con trai, gia đình Trần Thừa đường đường chính chính trở thành chủ nhân mới của Hoàng cung.

Tuổi thơ của Trần Cảnh có thể nói là yên bình, may mắn kề cận Nữ đế, một bước lên mây trở thành tân Hoàng đế. Ngồi lên ngai vàng từ tuổi ấu thơ song Trần Thái Tông được cha nhiếp chính, có chú nhất mực trung thành, từng bước ổn định triều chính, có được lòng dân, xây nền vững chắc cho cơ nghiệp họ Trần. Tuy rằng Trần Cảnh kết hôn rất sớm, khi mới chỉ là đứa trẻ 7 tuổi, song ông và Chiêu Thánh hoàng hậu nhỏ là thanh mai trúc mã, lớn lên là phu thê hoà hảo. Có thể nói từ tuổi còn rất trẻ, Trần Thái Tông đã có mọi thứ trong tay, có ngai vàng được danh chính ngôn thuận từ vợ nhường ngôi, có cơ nghiệp vững vàng nhờ công sức dẹp loạn bình thiên hạ của Trần gia, có tình yêu ngọt ngào và cuộc hôn nhân hạnh phúc với Chiêu Thánh hoàng hậu. Thế nhưng những tháng ngày bình yên lại chẳng kéo dài mãi.

MẶN…

Mặn là vị của nước mắt. Biến cố đau thương đầu tiên đến với Trần Cảnh là sự ra đi của người mẹ, Thái thượng hoàng hậu Lê Thị Thái mất năm 1230. Vậy là lúc 12 tuổi, Trần Cảnh cũng trải qua nỗi đau mất người thân như người vợ Chiêu Thánh của mình (Chiêu Thánh mất cha khi 8 tuổi). Năm 15 tuổi, Trần Cảnh và Chiêu Thánh lại chịu nỗi đau mất đi đứa con đầu lòng Hoàng thái tử Trần Trịnh (năm 1233). Ngay sau đó Thái thượng hoàng Trần Thừa cũng qua đời (tháng 2 năm 1234). Chỉ trong vòng 5 năm, Trần Cảnh liên tiếp mất đi những người thân yêu nhất. Những biến cố đó hẳn đã để lại khoảng trống mênh mông trong tâm hồn vị quân vương trẻ tuổi. Sau ngày Thượng hoàng mất, Trần Thái Tông có ý cất nhắc, dựa vào người anh trai Trần Liễu, phong cho Trần Liễu là Hiển Hoàng phụ chính bên cạnh người chú họ là Thái sư Trần Thủ Độ. Thế nhưng Trần Liễu và Trần Thủ Độ có vẻ không hoà hợp mà trở thành 2 thế lực đối đầu. Năm 1236 xảy ra sự biến cung Lệ Thiên, Trần Liễu bị kết án cưỡng gian cung nhân cũ Lý triều và bị giáng xuống làm Hoài vương, dần mất quyền lực trên chính trường. Từ đó, Thái sư Trần Thủ Độ trở thành người trụ cột quyền uy nhất trong triều. Với vị thế của mình, cùng với vợ là Linh Từ quốc mẫu, Trần thái sư cũng thẳng tay can thiệp vào chuyện hậu cung.

ĐẮNG…

Năm 1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua đã lâu không có con, Trần Thủ Độ lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên công chúa, vợ của Trần Liễu đồng thời là chị gái của Chiêu Thánh đang mang thai 3 tháng làm hoàng hậu để lấy đứa trẻ mà nhờ cậy về sau. Trần Liễu ôm hận nỗi nhục bị cướp vợ cướp con, họp quân nổi loạn ở sông Cái. Trước tình cảnh éo le này, với bản tính hiền lành và sự tôn trọng người chú, Trần Thái Tông vô cùng khó xử. "Trẫm còn thơ ấu vội mất hai thân, bơ vơ đứng trên sĩ dân không chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế vương đời trước, thạnh suy không thường, cho nên Trẫm đến núi này chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác", lời bày tỏ của Trần Cảnh khi bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử xin tu theo thiền sư Đạo Viên đã cho thấy sự bất lực tột cùng của đấng quân vương. Trước sự sắp đặt thế cục bất nhân bất nghĩa mà ông chú đưa ra cho mình, nhà vua những mong bỏ lại tất cả, rời xa sự đời. Thế nhưng, nhà vua có chạy đường trời cũng không thoát khỏi bàn tay ông chú Trần Thủ Độ. Trước tuyên bố “vua ở đâu kinh sư ở đó”, để tránh phá núi Yên Tử cùng lời phân tích của sư Đạo Viên "Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm”, vua Trần Thái Tông buộc phải xuống núi trở lại kinh sư và làm theo sắp đặt của ông chú. Nhà vua phải phế lập Hoàng hậu, Thuận Thiên trở thành Hoàng hậu của em chồng đồng thời là em rể, Trần Liễu phải an phận làm An Sinh vương mất hết quân đội, còn hoàng hậu bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa, giam lỏng trong hậu cung. Không ai rõ Trần Thủ Độ đã thuyết phục vua như thế nào, đã mang những ai những gì ra làm vật trao đổi với nhà vua, nhưng một quân vương ôn nhu, thiện lương như Trần Cảnh buộc phải chấp nhận chịu lời gièm pha của thiên hạ, chê trách của hậu nhân “phong hoá hủ bại”, “cướp vợ giành con của anh”. Rất có thể đó là lựa chọn duy nhất của vua để giữ mạng cho người anh Trần Liễu, bảo vệ tính mạng của người vợ Chiêu Thánh mà không làm Đại Việt lâm vào cảnh chiến loạn.

Sử có chép từ sau biến cố đó, vua Trần Thái Tông rất chuyên tâm tu tập theo Thiền tông Phật giáo. Có lẽ nghiên cứu, ứng dụng triết lý từ kinh Phật, là cách giúp cho vua lý giải sự đời, ngậm đắng nuốt cay, lấy lại tâm quân bình để trông coi chính sự, làm tốt vai trò quân chủ mà người vợ trao lại, giữ gìn ngai vàng mà mấy thế hệ ông cha đã đổ máu hy sinh để mang về cho gia tộc.

CAY…

Cay vốn không phải là một vị cơ bản thực phẩm mang đến, mà là cảm giác nóng của cơ thể khi bị kích thích. Vị cay là chất xúc tác khiến cho món ăn thêm hấp dẫn, khiến người thưởng thức thêm phấn khích, ngất ngây, nhưng cũng có thể làm người đó bị bỏng rát, đau đớn khi sử dụng quá mức. Dưới triều đại của Trần Thái Tông, nhiều sử gia nhìn nhận thái sư Trần Thủ Độ chính là quyền thần, nhưng ông ấy là quyền thần được vua trọng dụng và hết mực tin tưởng. Trần Thủ Độ “quyền át vua” song ông dùng quyền hành đó với cái tâm vì cơ nghiệp họ Trần và một mực trung thành với Thái Tông. Sau hai sự biến năm Bính Thân (1236) phế Hiển hoàng rồi năm Đinh Đậu (1237) phế lập Hoàng hậu, Trần Thái Tông đã chấp nhận số phận dựa vào ông chú. Theo thời gian, Trần Thái Tông khẳng định được tài năng đức độ, sự anh minh, sáng suốt của mình và dần dần tự chấp chính. Thái sư Trần Thủ Độ khi lớn tuổi cũng lui về sau để nhà vua và thế hệ con cháu họ Trần làm chủ, tiếp tục gánh vác cơ đồ. Thời gian trôi qua, chuyện cũ cũng lùi dần vào dĩ vãng trong miệng lưỡi thế gian. 33 năm ngồi trên ngai vàng, Trần Thái Tông cùng với Hoàng tộc họ Trần và triều đình đã mang lại thái bình thịnh trị cho Đại Việt sau thời kỳ loạn ly, suy sụp trầm trọng cuối thời nhà Lý. Bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi nhận về Trần Thái Tông: “Vua khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ Nhà Trần thực to lớn vậy.” Vua vừa biết kế thừa phát huy những tinh hoa trong chế độ cai trị thời nhà Lý để lại, vừa suy tư cải tổ những điều bất cập, không còn phù hợp, không có lợi cho dân cho nước. Vua tiếp tục tôn sùng, học tập ứng dụng theo đạo Phật, vừa đổi mới, phát huy thế mạnh của Nho giáo, Đạo giáo vào giáo dục và trị quốc. Tinh thần “tam giáo đồng nguyên” là biểu hiện đặc sắc của nền văn hoá Đại Việt dưới thời Trần, giúp tạo nên những con người thời đại Đông A hào sảng, phóng khoáng, tài năng và anh hùng.

Xuất thân từ con nhà võ, vua Trần Thái Tông rất chú trọng xây dựng quân đội Đại Việt vững vàng. Không chỉ cử tướng tài, vua còn tự mình thân chinh dẹp Bắc bình Chiêm (những năm 1240, 1241, 1252). Năm 1257 và 1258, dưới sự lãnh đạo của vua Trần Thái Tông cùng tài thao lược của Thái sư và các tướng giỏi, quyết tâm của toàn thể quân dân và kế sách vườn không nhà trống, vó ngựa chinh phạt thế giới của quân Mông Cổ đã buộc phải dừng lại tại kinh thành Thăng Long và rút quân về mà không hề cướp phá. Trải qua những mất mát, tổn thất nặng nề mà không hề nản chí, quân dân nhà Trần đã lật ngược thế trận, đánh cho quân giặc buộc phải sớm kết thúc chiến tranh, tướng giặc là Triệt Triệt Đô bị trách phạt phải uống thuốc độc tự vẫn. Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất toàn thắng, Trần Thái Tông dẫn đoàn quân Sát Thát ca khúc khải hoàn ngay trước thềm Tết Nguyên đán năm 1258.

BÙI…

Cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ đã mang đến nhiều bài học và kinh nghiệm trận mạc cho quan quân nhà Trần cũng như ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và những quyết định tiếp theo của vua Trần Thái Tông. Với phương châm bảo toàn sức dân, phải tham chiến là hạ sách, vua giữ chủ trương hoà hiếu với cả Nam Tống và quân Mông Cổ, hoà hoả bang giao nhưng cứng rắn không nhượng bộ trước những yêu sách nhũng nhiễu của quân Mông và nhà Nguyên về sau. Đồng thời vua dưỡng sức dân và nhanh chóng đào tạo thế hệ kế thừa đưa các quan văn, võ tướng trẻ và tài năng gánh vác việc nước.

Ngày mùng một Tết năm 1258, Trần Thái Tông tổ chức ngày hội khao quân, định công, phạt tội cho quan tướng tại Thăng Long. Cũng trong ngày này, vua ban cho công thần Lê Tần tên Lê Phụ Trần, lãnh chức Nhập nội phán thủ, tước Bảo Văn hầu và gả vợ cũ vua là Chiêu Thánh công chúa cho Lê Tần. Quyết định này một lần nữa dấy trên những lời chê trách trong dân gian “Trách người quân tử bạc tình, Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”. Thế nhưng những gì diễn ra sau đó đã cho thấy đây là quyết định mang lại cái kết có hậu cho nhiều người. Sử chép lại Chiêu Thánh công chúa sinh được hai người con, con trai là Thượng vị hầu Lê Tông, sau này được ban quốc tính, chính là danh tướng Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng, con gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê sau được gả cho Trạng nguyên Trần Cố. Người viết trộm nghĩ, để con cháu họ Lê được mang quốc tính họ Trần và phong tước hầu, vương, công chúa thì rất có thể Trần Thái Tông (lúc này là Thượng hoàng) đã nhận hai người làm nghĩa tử, nghĩa nữ. Cùng năm, ngày 24 tháng 2 âm lịch, Trần Thái Tông truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Hoảng tức vua Trần Thánh Tông và lui về làm Thái thượng hoàng. Sau khi nhường ngôi, Thượng hoàng thường ở phủ Thiên Trường (Nam Định) hoặc am Thái Vi thuộc hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), khi có việc mới trở về kinh sư. Ở tuổi 40 đương sung sức, vua Trần Thái Tông chọn rút về vai trò Thái thượng hoàng, để đích tử Trần Hoảng lúc này 18 tuổi nối ngôi, tức vua Trần Thánh Tông. Từ đó Ngài vừa dõi theo, chỉ bảo cho tân đế, vừa tự do thực hiện chí khí ngao du và tu học thiền tập. Trần Thái Tông là vị Thượng hoàng hiếm có trong lịch sử mà khi còn tại vị Hoàng tộc có cả Thái thượng hoàng, Hoàng đế (Trần Thánh Tông), Hoàng thái tử (Trần Khâm tức Trần Nhân Tông sinh năm 1258) và Hoàng thái tôn (Trần Thuyên tức Trần Anh Tông sinh năm 1276).

Vào ngày 1 tháng 4 âm lịch năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông qua đời tại điện Vạn Thọ (Thăng Long) hưởng thọ 60 tuổi. Một năm sau đó, tháng 3 âm lịch năm 1278 Chiêu Thánh công chúa Lý Thiên Hinh cũng qua đời, thọ 61 tuổi. Câu chuyện sóng gió hôn nhân của bốn người anh chị em một nhà khép lại từ đây.

Có thể nói muôn vị nhân gian, ngọt ngào, mặn chát, đắng ngắt, cay nồng, thơm bùi, ân oán tình thù, tình yêu và gia tộc, chiến tranh và hoà bình, danh lợi phù hoa và thong dong tự tại, cuộc đời của Thái Tông Trần Cảnh đều nếm trải. Đón nhận những may mắn, thuận lợi và phát huy lợi thế đó; chấp nhận nghịch cảnh, những điều bất như ý và nhẫn nhịn đi qua vì mục đích lớn hơn; tôn trọng, lắng nghe những bậc cha chú đi trước và yêu thương tin tưởng, trao quyền cho thế hệ tiếp theo; ở ngôi chí tôn mà vừa nghiêm túc chuyên cần việc trị quốc, vừa chuyên tâm không trễ nải ước mong học Đạo, Trần Thái Tông được ca ngợi là ông vua thiền sư xuất sắc của Đại Việt đã có công kiến tạo nên thế hệ kiệt xuất tiếp theo của dòng máu Đông A anh hùng.

Còn lại: 5