NỮ ĐẾ, CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1- “Nữ hoàng nước mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh

Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên

     Nếu tìm suốt chiều dài lịch sử một người để trao danh hiệu “Nữ hoàng nước mắt” Đại Việt thì đó chỉ có thể là nàng, Nữ đế duy nhất trong thời đại phong kiến: Chiêu Hoàng Lý Thiên Hinh.

     Lý Chiêu Hoàng cất tiếng khóc chào đời vào tháng 9 âm lịch, năm Mậu Dần 1218. Bi kịch đầu đời của nàng chính là sinh ra trong hoàng tộc vào thời buổi nhà Lý suy tàn. Nàng lại là tiểu công chúa trong khi cha mẹ và bao người khao khát mong đợi một hoàng nam, một người thừa kế. Nàng là con gái thứ của vua Lý Huệ Tông, trước nàng đã có Thuận Thiên công chúa. Mẹ nàng, Thuận Trinh hoàng hậu Trần Thị Dung vốn không được lòng thái hậu, lại chỉ sinh hai con gái nên càng trở thành cái gai trong mắt bà nội. Cha nàng, ông vua ngồi trên ngai vàng nhưng không mang thực quyền, dù rất yêu vợ thương con cũng đành bất lực trước những cuộc đấu đá tranh giành của các phe phái triều đình, bất lực giữa cuộc chiến mẹ chồng nàng dâu nơi cung cấm. Nàng vốn được cha đặt tên là Phật Kim, nhưng không rõ vì sao sau đó lại đổi thành Thiên Hinh, tước hiệu Chiêu Thánh công chúa. Có lẽ ngay từ việc đặt tên không thuận lợi đã báo hiệu cho một đời sóng gió về sau.

1. Nu hoang nuoc mat Ly Thien Hinh.jpeg

     Năm 1224, mới 6 tuổi, Thiên Hinh được vua cha truyền ngôi báu trở thành Lý Chiêu Hoàng dưới sức ép của thế lực Trần gia, họ ngoại của nàng. Một cô bé 6 tuổi thì có thể làm được gì ở  trên ngai vàng? Nàng chỉ có thể trở thành quân cờ trong tay chính mẹ ruột, thái hậu Trần Thị Dung và những người thân bên ngoại, để rồi nhanh chóng đi tới cuộc đổi thay triều đại sau màn nhường ngôi cho chồng và cũng là anh họ của nàng: Thái Tông Trần Cảnh. Vị Công chúa trở thành Hoàng thái nữ, Nữ đế rồi từ đây nàng lui về hậu cung là Chiêu Thánh hoàng hậu khi vừa 7 tuổi. Người đời trách tội nàng làm mất ngôi nhà Lý, thậm chí Đền Đô cũng chỉ thờ 8 vị vua “Lý Bát Đế” còn vị vua thứ 9 là nàng thì thờ riêng tại Long Miếu. Ở cái tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nàng đã trở thành “tội nhân” của dòng họ Lý.

     Bi kịch nối tiếp bi kịch, chẳng bao lâu sau màn đổi thay triều đại, năm 1226 cha nàng, vua Lý Huệ Tông lúc này đã xuất gia, bị thái sư Trần Thủ Độ ép tự vẫn khi mới 32 tuổi. Tiếp đó, với phương châm diệt trừ tất cả những mối nguy với cơ nghiệp nhà Trần, Trần Thủ Độ liên tục ra tay đàn áp họ Lý, hạch tội, truy sát tôn thất, bắt người họ Lý đổi sang họ khác, khiến hoàng tử Lý Long Tường (chú của vua Huệ Tông) phải dẫn theo gia quyến rời bỏ quê hương tới tận Cao Ly nương thân. Vậy là ở ngôi hoàng hậu, mới 8 tuổi, Thiên Hinh liên tiếp chịu nỗi đau mất người thân: mất cha, mất bà, người thân họ nội bị chính họ ngoại truy sát. Ngày mẹ nàng, Trần Thị Dung tái giá lấy Trần Thủ Độ- người cậu họ cũng là người gây ra tấn thảm kịch cho họ Lý, nàng mất luôn chỗ dựa nơi đấng sinh thành. Thiên Hinh chẳng đi đâu cả, nàng vẫn ở Hoàng cung nơi nàng sinh ra và lớn lên, nhưng ngôi nhà đó đã không còn là nhà của nàng nữa. Hoàng cung đã đổi chủ và Thiên Hinh chỉ còn lại một thân một mình, cô đơn trong chính ngôi nhà của mình.

     Số phận vẫn không ngừng thử thách người từng ở ngôi nữ hoàng. Lấy chồng từ thưở lên 7, tới năm 15 tuổi thì Thiên Hinh hạ sinh con trai đầu lòng. Tiếc thay Hoàng thái tử Trần Trịnh mất ngay sau khi chào đời để lại nỗi đau khôn nguôi cho cha mẹ. Kể từ đó sức khỏe của Chiêu Thánh hoàng hậu giảm sút. Nàng và Trần Cảnh chung sống nhiều năm nhưng chưa có con nối dõi. Năm 1237, trước nỗi lo huyết thống hoàng gia đứt đoạn, một lần nữa thái sư Trần Thủ Độ ra tay ép buộc Trần Thái Tông phế Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên,chị gái nàng cũng là chị dâu của vua, đang mang thai 3 tháng làm hoàng hậu. Màn “giành vợ cướp con” này dẫn tới sự kiện Trần Liễu (anh của Trần Cảnh, chồng của Thuận Thiên) làm loạn bất thành, Trần Cảnh trốn lên Yên Tử đi tu không được và gây ra mối hiềm khích trong 2 nhánh trưởng thứ mà sau này họ Trần chủ trương hôn nhân nội tộc để ràng buộc, hàn gắn. Kết cục là cả 4 người cháu đều không thoát khỏi bàn tay Thái sư. Thái Tông buộc phải phế lập Hoàng hậu, Thuận Thiên trở thành Hoàng hậu của em chồng đồng thời là em rể, Trần Liễu để giữ mạng sống phải an phận làm An Sinh vương, còn Thiên Hinh bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa. 15 tuổi nàng mất con, 19 tuổi mất ngôi hoàng hậu, mất luôn cả chồng. Nàng từng là nữ đế rồi thành phế đế, từng là hoàng hậu giờ lại thành phế hậu. Nàng không thể rời khỏi Hoàng cung bởi ông cậu Thái sư không để nàng ra khỏi tầm mắt. Thiên Hinh bị giam lỏng trong chính ngôi nhà của mình. Nàng chỉ có thể âm thầm lặng lẽ, cô đơn sống qua ngày.

     Mười một năm sau, năm 1248 một lần nữa Thiên Hinh mất đi người chị duy nhất của mình. Thuận Thiên hoàng hậu đột ngột qua đời khi chỉ mới 32 tuổi, để lại 4 đứa trẻ cháu mồ côi còn quá nhỏ. Những năm sau đó, vua Trần Thái Tông có nạp phi nhưng không hề lập hậu. Sử sách không còn nhắc đến Thiên Hinh, nhưng hẳn rằng nàng không thể đếm nổi bao nhiêu nước mắt đã rơi cùng những đứa cháu của mình nơi Hoàng cung rộng lớn mà vắng bóng người thân.

     Sử sách chỉ nhắc tới Thiên Hinh trong một chuyện thị phi khác. Năm 1258, sau chiến thắng trước quân Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thái Tông đem gả Chiêu Thánh công chúa cho  quan Ngự sử đại phu Lê Tần, người đã lập đại công giúp vua thắng giặc và được ban tên Lê Phụ Trần. Lê Tần vốn là cận thần đồng trang lứa với vua Thái Tông, cũng có nghĩa rằng ở thời điểm ban hôn cả Lê Tần và Lý Thiên Hinh đều đã ngoài 40 tuổi. Quyết định này của vua gây nhiều tranh cãi, đàm tiếu trong thiên hạ. Có người nói nhà vua bạc tình “chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”. Kẻ chỉ trích nhà Trần luân thường hủ bại, Trần Thái Tông đem vợ ban thưởng, Lê Tần là bầy tôi mà lấy lại vợ vua, Chiêu Thánh chấp thuận gả đi là mất hết liêm sỉ. Cũng có người đời sau đặt giả thiết biết đâu việc ban hôn là bình phong cho cái kết của một mối tình khác. Sử chép lại ngay sau khi ban hôn, trong tháng giêng, Lê Phụ Trần với tước phò mã Bảo Văn Hầu được Vua cử đi sứ nhà Nguyên. Sau khi tái giá, Chiêu Thánh công chúa rời xa kinh thành về phủ họ Lê. Cùng năm, ngày 24 tháng 2 âm lịch, Trần Thái Tông truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Hoảng tức vua Trần Thánh Tông và lui về làm Thái thượng hoàng. Sau khi nhường ngôi, Thượng hoàng thường ở phủ Thiên Trường (Nam Định) hoặc am Thái Vi thuộc hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), khi có việc mới trở về kinh sư.

     Ở tuổi 40, cuộc đời Lý Thiên Hinh rẽ sang một lối khác, lần này là rời xa Hoàng cung nơi nàng gắn bó quá nửa đời người. Có bao nhiêu nước mắt đau thương, mất mát, đắng cay, nghiệt ngã nàng đã khóc suốt thời niên thiếu tới tuổi trung niên? Không ai biết được. Nhưng vào 20 năm cuối của cuộc đời, hẳn nàng đã rơi những giọt nước mắt hạnh phúc khi được làm mẹ, được chứng kiến con trai và con gái trưởng thành. Sử chép lại Chiêu Thánh công chúa sinh được hai người con, con trai là Thượng vị hầu Lê Tông sinh năm 1259, sau này được ban quốc tính, chính là danh tướng Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng, con gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê sau được gả cho Trạng nguyên Trần Cố. Cả một đời sóng gió của Nữ đế khép lại với hạnh phúc tuy muộn màng nhưng thật xứng đáng.

     Dù thế nào đi nữa, “Nữ hoàng nước mắt” của Đại Việt cũng đã làm trọn vai trò dấu gạch nối giữa hai triều đại. Dù lịch sử chẳng viết nhiều về nàng nhưng có một sự thật rành rành: cuộc đời đẫm nước mắt của nàng đã góp phần giảm bớt tang thương thời loạn, giúp cho thiên hạ thái bình, Trần triều thịnh trị.

Đọc thêm:

Còn lại: 5
1 Bình luận
Ảnh đại diện
Cảm ơn bạn vì bài viết này nha
cám ơn bạn đón nhận ^^  –  Phượng Tía 1750126470000