Nguyễn Ngọc Xuân Nghiêm
3 bài viết
9 bình luận
Ảnh đại diện
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp; Chắc hẳn, khi đọc “Vợ Nhặt” của Kim Lân, độc giả nào cũng ám ảnh bởi hình ảnh nồi “chè khoán” đắng chát với vị cháo cám nghẹn bứ nơi cuống họng trong bữa cơm nghèo khốn cùng của gia đình Tràng. Thế nhưng, mấy ai ngờ rằng, ngoài đời thực, chè khoán vốn dĩ là món quà quê ngọt lành, thường xuất hiện trong những dịp sum họp đầm ấm. Phải chăng, chính sự đối lập giữa món ăn ngọt lành này với hiện thực phũ phàng đã biến nồi cháo cám với tên gọi “chè khoán” thành một ám ảnh nghệ thuật – vừa là lời tố cáo đanh thép cho thảm cảnh xót xa của đêm trường tối tăm trong lịch sử dân tộc, vừa là minh chứng đầy kiêu hãnh về sức sống con người giữa thời buổi đói kém chết chóc?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chè khoán (hay còn gọi là chè ong, chè kho) là một món ăn quen thuộc trong ẩm thực miền Bắc Việt Nam. Thức quà này được nặn nên từ đậu xanh dẻo thơm, đường mật vàng óng, hòa quyện vị ngọt thanh, bùi béo. Màu vàng của chè tượng trưng cho vàng bạc châu báu, vị ngọt như lời cầu mong cuộc sống đủ đầy. Người xưa nấu chè khoán vào dịp Rằm tháng Bảy, giỗ chạp hay Tết Nguyên đán, với niềm tin món ăn này sẽ mang lại sung túc. Đặc biệt, khi cả nhà quây quần thưởng thức, chè khoán trở thành sợi dây gắn kết, là minh chứng cho tinh thần “đoàn viên” – một nét đẹp văn hóa ăn sâu vào tiềm thức người Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có hai biến thể phổ biến. Chè kho gạo nếp thơm nồng mùi gừng, ăn kèm dừa non giòn tan; và chè kho đậu xanh béo ngậy nước cốt dừa. Dù cách chế biến khác nhau, chúng đều thấm đẫm triết lý “tận dụng tối đa nguyên liệu giản dị” – phẩm chất cần cù, sáng tạo của người Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thế nhưng, khi bước vào trang văn Kim Lân, chè khoán không còn là thức quà ngọt bùi dịp sum vầy nữa mà nó chỉ là nồi cháo cám đắng nghét được bà cụ Tứ gọi bằng cái tên mỹ miều “chè khoán”. Đó là sự chua xót của những con người trong cùng cực đói phải dùng ngôn từ đẹp đẽ để che đậy hiện thực phũ phàng. Cháo cám – thức ăn của gia súc – trở thành “cứu cánh” cho bữa đói lả. Kim Lân không tả tỉ mỉ mùi vị, nhưng qua chi tiết “Tràng nghẹn bứ ở cổ”, độc giả thấu được nỗi đau thân phận: con người bị đẩy xuống mức sinh tồn thấp nhất.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Song, đằng sau bi kịch ấy, nồi cháo cám lại tỏa sáng những phẩm chất đáng trân trọng. Qua nồi “chè khoán” đắng chát, Kim Lân đã khắc họa trọn vẹn vẻ đẹp tâm hồn Việt. Là tình mẫu tử thiêng liêng, là khát vọng sống mãnh liệt, là tinh thần cộng đồng nơi người và người có thể cùng nhau nương tựa, nồi “chè khoán” ấy như lời nhắc nhở về sức mạnh của tình người giữa biển cả tai ương, họ vẫn biết chắt chiu từng hạt hạnh phúc, như hạt cám bé nhỏ lõng bõng trong nồi vẫn nuôi sống họ qua ngày.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dẫu đắng chát hay ngọt lành, dù là thức quà chiều dân dã hay không, dù ở dạng thức nào, món chè khoán ấy vẫn là lăng kính phản chiếu tâm hồn người: giàu lòng yêu thương, bền bỉ trước nghịch cảnh, và không ngừng hướng về ánh sáng. Kim Lân đã biến chi tiết nhỏ thành “bụi vàng” của tác phẩm, để mỗi độc giả nhận ra: giữa đói nghèo, chính tình người và niềm tin mới là thứ “chè khoán” ngọt nhất, nuôi dưỡng dân tộc này vượt qua bão táp lịch sử.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/8c2f3d4fcf9a9bd09ee5d3ee545cacb42ed244ad63ee7affeb75b596bed140bb.png"alt="image.png"style="max-width: 100%;"></div>
Ảnh đại diện
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lướt qua các bài đăng trên mạng xã hội, ta không khó bắt gặp các từ hay ngữ nghĩa mới lạ mà giới trẻ truyền nhau. Những từ ngữ ấy dù chỉ bắt nguồn từ một cá nhân lại dần trở thành một biểu hiện của cá tính, của sự linh hoạt trong sử dụng tiếng Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Việc sáng tạo các từ tiếng Việt và cách dùng chúng đã xuất hiện từ lâu.Chẳng nói đâu xa, trong Truyện Kiều có hai câu thơ tả m.ộ nàng Đạm Tiên:“Sè sè nắm đất bên đường, Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.”“Sè sè” nghĩa là gì? Chưa có quyển từ điển nào thời Trịnh - Nguyễn ghi lại nghĩa của từ láy này, nhưng người đọc ngay lập tức cảm nhận được hình ảnh một ngôi mộ đơn sơ, vô danh không nhang khói. Vậy, sè sè chính là “sờ sờ” trước mắt mà thấp “lè tè” bên vệ đường. Nguyễn Du đã khéo léo vận dụng tính tượng hình của âm tiết tiếng Việt để chắp bút cho những câu thơ tinh tế.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo tác giả Lê Văn Siêu trong sách “Nguồn gốc văn học Việt Nam”,tiếng Việt không những phong phú về âm vần mà còn độc đáo ở chỗ có những âm-tiếng gốc thường gắn liền với hình tượng, tính chất nhất định của sự vật. Ví dụ, âm “í” diễn tả những thứ nhỏ nhít (chuột nhí, ti hí), còn âm “ơ” gợi lên trạng thái không tỉnh táo (lơ mơ, ngờ ngợ, đờ đẫn), v.v.Khác với chữ tượng hình của Trung Quốc, “âm tượng hình” hay từ tượng hình trong tiếng Việt sở hữu sự linh hoạt, cho phép nhà thơ, nhà văn kết hợp âm thanh và sử dụng nghệ thuật chơi chữ tài tình. Mỗi từ ngữ được khởi sinh đều mang một sắc thái riêng biệt, tuy không phải lúc nào cũng trở nên phổ thông nhưng lại góp phần đa dạng hoá kho tàng ngôn ngữ Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Còn bạn, bạn có từ ngữ nào mà bạn cực thích hay không?</p></div>
Ảnh đại diện
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở Việt Nam có hẳn một cái gọi là văn hóa chửi – có nghĩa là người Việt chửi có vần có vè, có ve có vẩy; ch.ửi có bài bản, lớp lang. Nếu văn hóa được định nghĩa như là những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử hay lối sống, cách ứng xử có trình độ cao thì quả thật ch.ửi cũng là một nét văn hóa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm có đoạn:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Với lối chử.i có vần điệu, có cấu trúc chặt chẽ, người Việt Nam có thể ch.ửi từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không hề nhàm chán. Đó là một nghệ thuật độc nhất vô nhị mà không một dân tộc nào trên thế giới có được”.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nghệ thuật ch.ửi Việt Nam chủ yếu xuất phát từ miền Bắc do nếp sống cộng đồng tình cảm, ưa tế nhị và để tránh cái t,hô t.ục không cần thiết, người ta có hàng trăm cách, trăm lối diễn tả xa xôi, bóng gió được coi là tao nhã mà vẫn làm đối thủ tức đến hộc máu mồm. Bên cạnh ch.ửi tục, người ta còn có lối nói mát, nói mỉa, nói xéo, ch,ê bai cũng độc địa kinh khủng mà người ta cũng gộp luôn vào, mở rộng thuật ngữ chuyên “chửi”.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ở đây cũng cần phân biệt giữa “ch.ửi thề” và “ch.ửi”: ch.ửi thề là văng tục, ch.ửi vô tội vạ, ch.ửi bất cứ lúc nào – kể cả lúc vui, chửi mà không có dụng ý bôi nhọ, không nhằm đối tượng nào; ch.ửi thường nhắm đích danh người nào đó và thường trong lúc giận dữ, có dụng ý.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp;Với một dân tộc luôn coi trọng uy tín và danh dự hơn hết thảy mọi cái ở đời thì cách tốt nhất là phải làm cho đối phương mất mặt trước cộng đồng. Thông thường, người ta tức lúc nào thì ch.ửi lúc đó. Người Việt Nam truyền thống thì không như vậy, họ chờ&nbsp;khi có thật đông người thì mới chửi và khi ch.ửi lại cố tình đệm thêm “ới làng trên xóm dưới” hoặc “ới trời cao đất dày” như mời gọi thêm mọi người trong cả cộng đồng đến nghe.&nbsp;&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong lối ch.ửi của người Việt, cái hấp dẫn người nghe không phải là những lời tục tĩu, mà là những lời xưng hô không theo lẽ thông thường. Bình thường người ta “xưng khiêm hô tôn”, còn khi ch.ửi thì người ta cố tình làm ngược lại:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Cha bố tiên nhân thằng Cò! Cha bố tiên nhân thằng Cốc! Cha họ nội họ ngoại, họ gần họ xa, họ năm đời giở lên, họ ba đời giở xuống nhà thằng Cò, thằng Cốc! Cha tam đại, tứ đại, ngũ đại mai thần chủ thằng Cò, thằng Cốc! Cha đứa già đứa trẻ, đứa nhớn đứa bé, đứa mẹ đứa con, đứa đỏ như son, đứa vàng như nghệ nhà thằng Cò, thằng Cốc, bảo nhau định vỗ nợ của bà!” (Trích&nbsp;truyện Khao của Đồ Phồn).</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong đoạn trên, không có từ ngữ tục tĩu nào mà ta vẫn nhận ngay ra đây là lời ch.ửi. Người ch.ửi đã tự tôn mình lên mức ngang hàng với cha của “bố tiên nhân” dòng họ nhà đối phương. Người Việt vốn rất kính trọng ông bà tổ tiên (thể hiện qua tục thờ cúng tổ tiên), nên không thể nào chịu được khi bị ch.ửi “tên cái” (tên của bố mẹ, ông bà… hoặc các từ thay thế kiểu như tam đại, tứ đại…). Có thể nói, đây là một nguyên nhân dẫn đến thói quen giấu tên của người Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cái hay của các bài ch.ửi kiểu này còn ở chỗ các ý được liên kết với nhau một cách hợp lý, lặp kèm với đối, đi với nhau chan chát: họ nội họ ngoại, họ gần họ xa, họ năm đời giở lên, họ ba đời giở xuống; đứa già đứa trẻ, đứa nhớn đứa bé, đứa mẹ đứa con, đứa đỏ như son, đứa vàng như nghệ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy rủa x.ả như vậy, nhưng đối phương vẫn không ch.ửi lại hoặc dùng “võ tay chân” với người ch.ửi, bởi vì toàn bộ bài ch.ửi chỉ là những lời cạnh khóe, bóng gió, chả ai dại gì mà ra mặt. Mặt khác, việc ch.ửi tuy không nêu đích danh nhưng nhờ một số chi tiết ám chỉ nên ai cũng hiểu người ch.ửi muốn ám chỉ ai, nhờ vậy mà vẫn đạt được mục đích là làm cho đối phương mất mặt trước cộng đồng và hả cơn giận trong lòng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Với cách diễn đạt bóng gió, đầy tính ám chỉ về nội dung và có cấu trúc chặt chẽ, vần điệu, nhịp nhàng về hình thức, lối ch.ửi của người Việt&nbsp;Nam đã bước vào hàng “nghệ thuật”; nó có lẽ không những không còn thuộc loại hiện tượng “vô văn hóa” nữa, mà đã trở thành một hiện tượng độc đáo góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Việt Nam cổ truyền. Tuy rằng ngày nay ‘nghệ thuật ch.ửi” này đang mai một dần, nhưng không phải ngẫu nhiên mà ở nơi này nơi khác nó đang được “sân khấu hóa”. Nó là một bằng chứng độc đáo và hùng hồn rằng ngay cả trong lúc giận dữ, chửi nhau, con người cũng có thể giận dữ, chửi nhau “một cách có văn hóa”.</p></div>