TIẾNG VIỆT ÂN TÌNH: ÂM TƯỢNG HÌNH VÀ KHẢ NĂNG SÁNG TẠO VÔ BIÊN CỦA TIẾNG VIỆT

Lướt qua các bài đăng trên mạng xã hội, ta không khó bắt gặp các từ hay ngữ nghĩa mới lạ mà giới trẻ truyền nhau. Những từ ngữ ấy dù chỉ bắt nguồn từ một cá nhân lại dần trở thành một biểu hiện của cá tính, của sự linh hoạt trong sử dụng tiếng Việt.

Việc sáng tạo các từ tiếng Việt và cách dùng chúng đã xuất hiện từ lâu.Chẳng nói đâu xa, trong Truyện Kiều có hai câu thơ tả m.ộ nàng Đạm Tiên:“Sè sè nắm đất bên đường, Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.”“Sè sè” nghĩa là gì? Chưa có quyển từ điển nào thời Trịnh - Nguyễn ghi lại nghĩa của từ láy này, nhưng người đọc ngay lập tức cảm nhận được hình ảnh một ngôi mộ đơn sơ, vô danh không nhang khói. Vậy, sè sè chính là “sờ sờ” trước mắt mà thấp “lè tè” bên vệ đường. Nguyễn Du đã khéo léo vận dụng tính tượng hình của âm tiết tiếng Việt để chắp bút cho những câu thơ tinh tế.

Theo tác giả Lê Văn Siêu trong sách “Nguồn gốc văn học Việt Nam”,tiếng Việt không những phong phú về âm vần mà còn độc đáo ở chỗ có những âm-tiếng gốc thường gắn liền với hình tượng, tính chất nhất định của sự vật. Ví dụ, âm “í” diễn tả những thứ nhỏ nhít (chuột nhí, ti hí), còn âm “ơ” gợi lên trạng thái không tỉnh táo (lơ mơ, ngờ ngợ, đờ đẫn), v.v.Khác với chữ tượng hình của Trung Quốc, “âm tượng hình” hay từ tượng hình trong tiếng Việt sở hữu sự linh hoạt, cho phép nhà thơ, nhà văn kết hợp âm thanh và sử dụng nghệ thuật chơi chữ tài tình. Mỗi từ ngữ được khởi sinh đều mang một sắc thái riêng biệt, tuy không phải lúc nào cũng trở nên phổ thông nhưng lại góp phần đa dạng hoá kho tàng ngôn ngữ Việt Nam.

Còn bạn, bạn có từ ngữ nào mà bạn cực thích hay không?

Còn lại: 5