Truyền Thuyết Thành An Dương Vương - Triệu Đà (P2) - Đánh bại quân Tần, Thục Phán lên ngôi

Ảnh đại diện
Ngọc Nguyễn Cộng tác viên

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, mười năm nữa lại trôi qua. Suốt mười năm này, Thục Phán và Thục Mô chuyên tâm cải thiện đời sống của nhân dân, rèn binh mãi mã, chuẩn bị vũ khí, thăm do địa hình, bàn bạc chiến lược. Cả hai người họ đều không một phút nào dám chểnh mảng. Nhưng càng chuẩn bị, Thục Phán lại càng cảm thấy căng thẳng hơn trước. Mỗi tối ngài đều đứng trên đỉnh núi nhìn về phía Văn Lang mà không ngừng run lên, trong thâm tâm, ngài thực sự muốn trốn chạy khỏi cuộc chiến này. Vào đêm trước khi chuẩn bị tiến quân, sự căng thẳng của Thục Phán càng lên tới đỉnh điểm.

“Cho tới ngày cuối cùng mà vua của chúng ta cũng chẳng khác gì nhỉ?”

“Hả? Là Thục Mô? Anh đến đây từ khi nào vậy?”

“Từ đầu rồi. Ngày nào mày chả tầm giờ này ra đây đứng như trời trồng.”

“À… Ha ha… Chắc là… Chỉ là… Ngộ nhỡ thất bại thì sao? Em không biết nữa… Chuyện đó vẫn có thể xảy ra mà?” 

“Ài… Được rồi… Thế thì tùy mày quyết định. Tau sẽ nghe theo hết. Nhưng mà nhớ này, không phải chỉ có trị vì lâu mới là vượt qua ngài Thục Chế đâu. Mở rộng bờ cõi cũng là một cách để vượt qua, thậm chí vượt xa cái bóng của ngài ấy đó!”

Thục Mô tiến tới vỗ vai Thục Phán rồi bước đi, trước khi đi còn nói nốt:

“Ngài Thục Chế không chỉ tài giỏi mà còn rất quyết đoán, dám mạo hiểm bản thân để mang lại cuộc sống tốt hơn cho nhân dân. Đó chính là thứ khiến ngài ấy vĩ đại. Còn mày thì cứ suy nghĩ đi, tau đi ngủ đây!”

Thục Phán ngồi lặng im, đan hai tay vào nhau, trầm ngâm suy nghĩ giữa núi rừng hoang vu.

Sáng hôm sau, khi Thục Phán đang thay trang phục để chuẩn bị đứng nói trước mọi người ở trong buồng, Thục Mô ngồi dựa lưng vào tường hỏi vọng vào trong:

“Vậy… Không biết ý vị vua của chúng ta như nào nhỉ?”

“Em quyết định rồi. Chúng ta sẽ tiến đánh Văn Lang!”

“Phải vậy chứ!” Thục Mô bật phắt dậy hào hứng.

Ngay khi Thục Phán và Thục Mô chuẩn bị xuống dưới lầu để tuyên bố với mọi người thì một hạ nhân chạy tới, báo với họ rằng vua Hùng của nước Văn Lang muốn tới để trao đổi với họ. Cả hai người Thục Phán, Thục Mô đều giật thót, sững người bàng hoàng. Làm sao mà vua Hùng lại tới tìm gặp họ? Chẳng lẽ ông ấy biết được kế hoạch của họ? Ông ấy biết được bao lâu rồi? Liệu ông ấy có mang quân tới đánh trước không? Vô vàn những câu hỏi khiến cả hai trong phút chốc chẳng thể cất lời. Nhưng rồi Thục Mô nhanh chóng lấy lại được tinh thần, bảo hạ nhân mời vua Hùng lên để nói chuyện.

Khi vua Hùng bước lên trên lầu, Thục Phán và Thục Mô suýt chút nữa không tự Chủ được mà định quỳ xuống bái lạy. Vua Hùng, tuy tuổi tác đã cao, đầu tóc bạc phơ, râu dài tới ngực, có thể mạnh dạn đoán ngài cũng đã phải tới ngoài chín mươi rồi. Tuy vậy nhưng ánh mắt của ngài vẫn vô cùng linh hoạt, khí chất áp đảo cùng một cơ thể vạm vỡ. Thục Phán và Thục Mô trong thoáng chốc dường như đã hiểu lý do tại sao các vị vua Hùng lại có thể trị vì lâu như vậy.

Vua Hùng quỳ xuống, cúi người hành lễ với Thục Phán:

“Ta, vua Hùng đời thứ mười tám, xin kính chào vua Thục.”

“Ấy ấy! Ngài đứng lên đi! Ngài không cần quỳ thế đâu ạ!”

Vua Hùng ngồi dậy, nghiêm nghị nhìn thẳng vào mắt Thục Phán. Rồi ngài bật cười vuốt râu:

“Ha ha ha! Quả thực là một vị vua tốt. Đáng, đáng lắm! Ha ha ha!”

“Ngài… Nói sao ạ?”

“Được, vậy ta sẽ vào thẳng vấn đề luôn. Ta muốn cậu hãy trở thành vua của Văn Lang!”

Thục Phán và Thục Mô giật bắn người. Mọi chuyện đều quá trùng hợp rồi. Thục Mô cất tiếng hỏi:

“Ngài… Tại sao tự dưng ngài lại muốn nhường nước cho vua của chúng tôi. Chuyện này có hơi…”

“À xin lỗi. Có vẻ hơi đường đột và khó tin nhỉ? Được rồi, vậy thì ta sẽ giải thích một chút” Vua Hùng ngồi khoanh chân, ngừng một lát, ngài nói tiếp:

“Có thể nghe khó tin nhưng nước của chúng ta có một vị tổ là một con rồng thần. Ngài ấy vẫn luôn đồng hành cùng chúng ta suốt hàng ngàn năm nay. Cách đây hai mươi năm, ngài ấy từng quan sát được dị tượng ở vùng Nam Cương này, phát hiện ra rằng khí vận của Văn Lang di chuyển lên đây và kết hợp với khí vận của vùng này. Vậy nên ngài ấy biết rằng đã đến lúc để hợp nhất hai nước với nhau.”

“Vậy tại sao không phải ngài thâu tóm cả vùng này mà lại muốn nhường cho vua Thục của chúng ta?”

“Ha ha! Thực sự thì ta ban đầu cũng có ý định đó đấy!”

Thục Mô và Thục Phán lập tức rợn tóc gáy, vị vua già hiền từ nãy giờ đột nhiên tỏa ra bầu không khí vô cùng nguy hiểm, hai người họ đột nhiên cảm giác như những con mồi đang đứng trước một con thú ăn thịt dũng mãnh. Một cảm giác tuyệt vọng!

Nhưng rồi vua Hùng bất ngờ bật cười, phá tan bầu không khí đáng sợ ấy:

“Thực ra trước giờ các đời vua Hùng vẫn là được truyền lại cho người có tài, bọn ta không phân biệt xuất xứ hay thân phận, chỉ cần đủ khả năng là được! Và ta đến đây hôm nay vốn là để xem vị vua nước Nam Cương là người như nào, nhưng quả là không làm ta thất vọng. Ha ha ha!”

Thấy hai người trẻ tuổi đã bắt đầu gật gù đồng ý, vua Hùng nói thêm:

“Và ta thấy có vẻ hai người cũng đang chuẩn bị quân đội. Chắc cũng định để chiến tranh, mà đất nước các vị có vẻ sẽ tiến công, hẳn là Văn Lang nhỉ?”

Lại một lần nữa khí thế áp đảo của vua Hùng lại khiến hai anh em Phán Mô dựng tóc gáy.

“Vậy nên rõ ràng để việc này kết thúc trong hòa bình, không để nhân dân phải chịu khổ cũng không phải có thương vong, thì quyết định của ta là hợp lý mà phải không? Vậy ý kiến của ngài vua Thục đây như nào?”

“Ta… Ta đồng ý…” Thục Phán đáp.

Sau đó hai người tổ chức yến tiệc linh đình để chiêu đãi vua Hùng, đồng thời tuyên bố tin vui về việc sát nhập hai nước. Thục Phán tuyên bố rằng tên của đất nước mới sẽ là Âu Lạc, dựa trên tên của hai bộ tộc Âu và Việt của hai nước, còn ngài, theo truyền thống của nước Văn Lang sẽ lấy một danh hiệu, gọi là An Dương Vương, ý là vị vua sẽ mang lại sự bình yên cho nhân dân. Sau khi yến tiệc kết thúc, Thục Mô đích thân đưa tiễn vua Hùng trở về. Trước khi tạm biệt, vua Hùng nhắn nhủ với Thục Mô:

“Hai anh em cậu, cái gì cũng tốt. Cẩn thận, thông minh, có được lòng người, chỉ là, hai người có chấp niệm lớn quá. Bỏ đi được sẽ tốt hơn.”

“Ý ngài… Là gì?”

“Ha ha ha! Không có ý gì cả. Ta nói xong rồi. Thôi ta đi đây”

Nói rồi vua Hùng cùng các cận vệ cưỡi ngựa phóng trở về Văn Lang.

Một thời gian sau thì An Dương Vương chính thức lên làm vua của đất nước Âu Lạc. Một cảm giác tự hào dâng lên trong lòng vua An Dương Vương. An Dương Vương cùng anh trai Thục Mô của mình vô cùng nghiêm túc cẩn thận tuân theo cách trị vì của các vị vua Hùng cũng như cha mình. Hai người họ đích thân dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi, khai thác tài nguyên. Bộ máy nhà nước thì vẫn giữ nguyên gồm 15 bộ chia ra để dễ bề cai quản. Ngay cả tập tục thờ cúng tổ tiên được truyền lại từ các vị vua Hùng, An Dương Vương cũng không dám chểnh mảng hay bỏ qua. An Dương Vương tin rằng bản thân sẽ có thể giúp duy trì thời kỳ thịnh trị này lâu dài. Nhưng trời có mấy khi thuận lòng người. Mới trị vì được khoảng hai, ba năm, quân Tần từ phương Bắc đã kéo quân xuống để đánh chiếm Âu Lạc.

Truyện kể rằng, vào năm 221 TCN, vua Tần lúc đó là Tần Thủy Hoàng đã cho cử năm mươi vạn quân xuống để xâm lược Âu Lạc. Khí thế hùng hậu, trang bị đầy đủ, quân đội tinh nhuệ, đội quân nhà Tần phủ kín cả một vùng trời phương Bắc rầm rầm tiến đánh phía Nam. May mắn thay, không chỉ củng cố quân đội, An Dương Vương còn xây dựng một nhóm tình báo để không ngừng cảnh giác xung quanh. Khi quân đội của nhà Tần còn nửa tháng nữa mới tới được Âu Lạc thì An Dương Vương ở trong thành đã biết được thông tin.

Tuy vậy, An Dương Vương ngày hôm đó vẫn chưa thông báo gì cho mọi người, ngài vẫn đi thăm người dân, cùng dân cày cấy, trồng trọt, luyện binh mà chẳng biểu hiện gì khác thường. Tất cả mọi người duy chỉ có mỗi Thục Mô phát hiện sự bất thường của An Dương Vương.

Tối đó, khi mọi việc đã xong xuôi, An Dương Vương bỏ ra bên hồ. Ngài giận tới run người, vừa cầm những viên đá ném lên mặt hồ vừa không ngừng hét lên chửi rủa đám xâm lược từ phương Bắc.

“Lần đầu tiên thấy mi mất bình tĩnh tới như này nhỉ? Sao vậy? Có giặc ngoại xâm sao?”

“Anh Mô? Anh… À phải rồi, cái gì về em anh chẳng biết… Phải, em mới nhận được tin báo rằng có giặc từ phương Bắc tràn xuống, nghe nói chúng đông lắm, vó ngựa của chúng đi tới đâu thì cỏ dại không còn mọc nổi ở đó…”

“Mi nổi giận vì điều đó sao?”

“Phải! Tại sao đang yên đang lành chúng lại phải tới gây chiến làm gì? Thật là quá hống hách mà!”

“Chẳng phải chúng ta cũng định chiếm lấy Văn Lang giống như chúng sao?”

“Nhưng…”

“Rõ ràng bản thân mi biết việc chiến tranh giành lãnh thổ là điều bình thường phải không?”

“Phải…”

“Mi chỉ đang thấy giận dữ vì sợ hãi thôi. Mi sợ sẽ thua cuộc, sợ sẽ mất nước, sợ sẽ trở thành một vị vua kém cỏi trong mắt mọi người”

“Anh… Thật sự hiểu em quá rõ rồi…”

Thục Mô cũng cầm lấy một viên đá ném về phía hồ rồi nói:

“Mi biết không? Cái lúc tau tiễn vua Hùng về cái hồi ở trên núi ấy. Vua Hùng bảo tau một câu, rằng mi cái gì cũng tốt, chỉ là chấp niệm lớn quá, buông bỏ được chấp niệm sẽ tốt hơn.”

“Vậy là…”

Thục Mô đấm vào vai An Dương Vương, cười nói:

“Tau không bảo mi bỏ nước. Khùng à! Ý tau là cứ sẵn sàng chống trả lại đám xâm lược kia đi. Chúng ta cũng mạnh mà, đâu có yếu”

“Nhưng bọn chúng rất đông…”

“Đông thì sao? Được bao nhiêu người? Một trăm? Một ngìn? Một vạn? Chúng đến bao nhiêu chúng ta giết bấy nhiêu!”

“...”

“Thôi, vào nghỉ đi. Mai đem chuyện này nói với các Nùng chủ, à đâu, giờ họ thành các Lạc Tướng rồi. Mai đem chuyện này bàn với các Lạc Tướng xem như nào”

Sáng hôm sau, An Dương Vương đem chuyện này nói với các Lạc Tướng đề bàn xuất chiến lược. Người thì bảo cứ ở trên cao đẩy đá xuống đè bẹp chúng, người thì bảo giờ tiến quân đánh chúng trước cho không kịp trở tay. Mán Chủ thì Chủ trương cứ lao ra nghênh chiến, lấy được đầu của kẻ đứng đầu là những kẻ khác phải sợ. Mọi người cứ bàn qua bàn lại, chín người mười ý, mãi chẳng có ý kiến nào nghe khả quan để chống lại đội quân đông như vậy. Đến lúc bấy giờ, vua Hùng thứ mười tám, lúc này đã lui xuống trở thành một trong 15 Lạc Tướng, mới cất tiếng:

“Bỏ thành đi”

“Bỏ? Ông bảo bỏ cái gì cơ lão già? Bọn tôi không bỏ mặc đất nước vào tay kẻ khác dễ dàng như ông đâu!” Mán Chủ gân cổ dí sát mặt vua Hùng.

“Mán chủ! Ngài tôn trọng chút đi!”

“Nhưng lão ta bảo bỏ dễ quá thưa ngài!”

“Hãy cứ để ngài ấy nói tiếp đi. Mời ngài”

“Đối với các vị, như nào là một đất nước? Một mảnh đất? Một ngôi vua? Một thể chế? Hay là việc sở hữu toàn bộ tài nguyên của một vùng?”

Mọi người đều im lặng không thể trả lời.

“Đất nước không có ranh giới nào cụ thể cả. Đất nước chính là nhân dân. Mà nhân dân là ai? Là những người tôn chúng ta lên, những người tin tưởng và sát cánh với chúng ta. Nhân dân còn thì đất nước còn.”

Mọi người trong phòng đều ậm ừ tán thành.

“Vậy nên kế sách của ngài là… Bỏ vùng đất này… Để… Nếu không bị giới hạn phải bảo vệ thành… Nếu vậy sẽ đánh được linh hoạt… Như vậy thì chiến trường sẽ là… Ý ngài là chúng ta sẽ…” Vua An Dương Vương trầm ngâm.

“Đánh rải rác quanh rừng?” Vua An Dương Vương và Thục Mô đồng thanh nói lớn.

“Ha ha ha. Phải, phải! Quả là tuổi trẻ tài cao. Đúng là vậy!”

“Vậy mọi người không có ý kiến gì chứ?” Vua An Dương Vương nhìn xung quanh hỏi mọi người.

“Chúng ta đều nghe theo ngài thưa vua An Dương Vương!” Mọi người đồng thanh.

“Được, vậy chúng ta cứ thế mà làm!”

Theo sách Hoài Nam Tử, “lúc đó người Việt đều vào rừng ở với cầm thú, không ai chịu để quân Tần bắt”. Nhân dân Âu Lạc ta, phần lần bỏ trốn vào rừng, số còn lại thì giả vờ quy hàng, đóng làm những người buôn bán, bắt đầu tung tin đồn về một thứ sinh vật bí ẩn tên là Xà Niêng. Tin đồn rằng Xà Niêng là một con quái vật lông lá phủ toàn thân vô cùng cao lớn, nó phải cao tới tầm hai, ba mét. Chúng chính là những đứa con được rừng nuôi dưỡng, sống trong rừng từ nhỏ, vậy nên vô cùng thành thạo từng đường đi nước bước ở nơi đây. Xà Niêng với sải tay dài của mình có thể đu qua đu lại trên những cành cây cao, vừa đu xung quanh vừa hú lên khiến cho những kẻ đi lạc vào rừng rơi vào ảo giác. Sau khi thấy con mồi đã choáng váng thì nó sẽ liền lập tức nhảy xuống và dùng đôi cánh tay to dài ấy giáng thẳng xuống khiến vai của con mồi nát bét, tiếp đó nó sẽ giã nát hai bên chân rồi mới tha con mồi về tổ. Cuối cùng con mồi sẽ bị Xà Niêng bóc từng miêng thịt ăn qua ngày, đau đớn vô cùng mà chết thì không được, chạy thoát cũng không xong. Nhưng đó vẫn chưa hết, điểm đáng sợ của Xà Niêng là nó không hoạt động đơn lẻ, nó có thể kêu gọi đồng loại tới cùng nếu cần, và thậm chí ngay cả những con súc vật trong rừng cũng theo phe chúng.

Quân Tần chẳng biết tin tức đó do từ ai phao ra, chỉ biết là khắp cả doanh trại từ trên xuống dưới đều đã nghe về câu chuyện này. Vậy nên tuy muốn vào rừng để truy bắt dân Âu Lạc, nhưng chúng lại sợ hãi không dám. Những tên tướng lĩnh chỉ đành cứ mỗi ngày lại cử ra một nhóm nhỏ vào rừng thám thính. Nhưng cứ một nhóm lại tiếp một nhóm, cứ cử đi bảy người thì lại chết năm, hai người trở về thì thần hồn kinh hãi, miệng không ngừng lẩm bẩm “Là Xà Niêng! Nó có thật! Nó có thật!”. Cứ như vậy kéo dài suốt nhiều tháng nhiều năm, quân Tần tuy quân đông nhưng phải bị động vây hãm một chỗ. Cuộc chiến kéo dài, quân Tần Chủ yếu chỉ trọng việc luyện võ mà chẳng biết trồng trọt, sản xuất, nên lương thực cứ ngày một thiếu hụt. Những kẻ được phái vào rừng kiếm quả thì đều tay không trở về với tinh thần hoảng loạn, mà đến việc Xà Niêng rốt cuộc trông như nào, phạm vi hoạt động của giống loài đó tới đâu, quân Tần cũng chẳng thể biết được. Cứ như vậy, sĩ khí suy giảm, cộng thêm việc thiếu ăn, bệnh tật, cùng lời đồn ngày một lan rộng, ngày một đáng sợ, một đồn mười, mười đồn một trăm, năm mươi vạn quân Tần giờ chẳng còn tới một phần mười. 

Nhân cơ hội địch yếu thế, An Dương Vương ra lệnh cho mọi người đồng loạt tiến lên. Cảnh tượng lúc ấy huy hoàng biết mấy. Nhân dân Âu Lạc, người cưỡi voi, kẻ cưỡi hổ, con người và muông thú đất nước phương Nam nhỏ bé cùng nhau lao lên xé toang quân địch khiến chúng kinh hồn bạt vía. Chủ tướng của chúng là Đồ Thư bị giết chết, quân địch như rắn mất đầu, lập tức xin hàng.

Lại kể lại về quá trình nhân dân ta đánh du kích trong rừng. Dân ta lấy lá cây dệt thành áo khoác trùm kín người, khi có kẻ địch đi vào thì sẽ có những người ở đu trên cao mà hú hét, một số khác lại ở dưới khua chiêng múa trống ở khắp nơi, khiến địch bối rối trước những âm thanh dội từ bốn phía. Những kẻ bỏ chạy thì chúng ta bỏ qua, còn những kẻ sợ hãi tới cứng đờ người thì ta không giết mà bắt về làm con tin. Tuy nói là làm con tin nhưng họ sẽ được sinh hoạt cùng nhân dân, cùng ăn uống, cùng nghỉ ngơi, cùng sinh hoạt với mọi người. Chỉ có những kẻ nhất quyết làm phản thì sẽ bị trừng trị để làm gương. Vậy nên đến cuối cùng, quân số nhà Tần vẫn còn quá nửa sống sót. Vua An Dương Vương đã cho quân địch lựa chọn, hoặc quy hàng và ở lại sống ở Âu Lạc hoặc trở về nước tùy ý chúng.

Sau khi quân Tần trở về, sự tín nhiệm của cả nhân dân Lạc Việt lẫn Âu Việt đều tăng cao. Tuy quân Tần đã đại bại, nhưng vua An Dương Vương lại càng lúc càng ám ảnh hơn việc sẽ có quân xâm lược tấn công lần nữa. Tuy không ai kêu ca nhưng ngài thấy rõ nếu cứ bỏ thành mà lên núi để đánh, thì dân sẽ vô cùng khó khăn. Họ chẳng thể xây nhà để mà phải đi di chuyển liên tục quanh khu rừng, tối phải ngủ với dã thú, sáng lại phải luôn đề cao cảnh giác, không ngừng lùng sục xung quanh. Đã vậy, sau mỗi trận chiến lại phải trồng trọt, chăn nuôi lại từ đầu. Vậy nên ngài muốn có một tòa thành mà có thể đối cứng với cả năm vạn, thậm chí trăm vạn đại quân.

Với mong muốn ấy, An Dương Vương giao lại việc của mình cho Thục Mô, còn bản thân thì đi lang thang khắp nơi tìm kiếm vùng đất phù hợp để xây thành. Sau một thời gian dài không quản gian khổ, vua An Dương Vương cuối cùng đã tìm thấy một mảnh đất vô cùng phù hợp là Phong Khê. Phong Khê là một đồng bằng rộng lớn, đất đai màu mỡ, trù phú, có thể nhanh chóng phát triển. Thậm chí gần Phong Khê lại còn gần với hai con sông lớn, sau này gọi là sông Hồng và sông Hoàng Giang, cho dù quân địch có tiến đánh bằng đường thủy thì ta cũng có thể dễ bề phản công.

Vui mừng, An Dương Vương trở về và báo với mọi người về việc rời đô tới Phong Khê. Lúc ấy, tất cả mọi người, với sự tín nhiệm tuyệt đối cho vua An Dương Vương sau trận đại chiến, đều nhất loạt đồng ý. Duy chỉ có vua Hùng lên tiếng:

“Ngài có biết tại sao chúng ta lại đóng đô ở Phong Châu này không?”

“Mong ngài chỉ giáo”

“Đi, ta dẫn ngài đến một chỗ”

Vua An Dương Vương liền tuyên bố kết thúc cuộc họp rồi cùng vua Hùng đi ra ngoài. Tới chỗ khuất người, vua Hùng mới dùng phép cưỡi mây, đưa vua An Dương Vương tới núi Tản Viên trong chớp mắt.

“Ngài… Ngài biết dùng phép thuật sao?”

“Ha ha. Chỉ là chút tài mọn mà thôi. Những thứ này đều là do ta được học bởi ngài Lạc Long Quân đây đó.” Vua Hùng cười chỉ tay.

Vua An Dương ngước nhìn theo hướng chỉ tay của vua Hùng, bất ngờ ngã ngửa, một con rồng khổng lồ dài tới cả trăm trượng đang cuộn mình nhìn xuống. 

“Giới thiệu với cậu, đây là cha của bọn ta. Đúng hơn là cha của cả bộ tộc Bách Việt. Ngài tên là Lạc Long Quân, hẳn là cậu cũng đã nghe về ngài rồi.”

“Dạ… An Dương… Thục Phán xin kính chào ngài Lạc Long Quân. Ta đã nghe người lớn kể về ngài và những chiến tích của ngài suốt hồi nhỏ. Đến nay mới được trực tiếp gặp mặt!”

“Cha, ngài thấy cậu bé thế nào?” Vua Hùng cung kính cúi người hỏi.

“Quả là một đứa trẻ ngoan. Rất thật thà và quan tâm người khác” Lạc Long Quân đáp.

“Cậu thấy đấy, đất nước chúng ta vẫn luôn được ngài Lạc Long Quân bảo hộ. Nhưng ngài vì một số lý do nên chỉ có thể ở lại vùng núi rừng này đây. Lý do chúng ta chọn đóng đô ở vùng núi Phú Thọ vì nó ở gần ngài Lạc Long Quân, có đi ngựa thì cũng chỉ mất hai, ba ngày đường. Nếu giờ cậu đóng đô ở Phong Khê, thì sự bảo hộ của ngài sẽ rất yếu. Cậu vẫn có ý định đổi chứ?”

Vua An Dương Vương trầm ngâm suy nghĩ một hồi rồi đáp:

“Nếu là tôi của trước kia, chắc hẳn sẽ nghĩ cứ theo lối cũ là tốt nhất. Nhưng qua việc sát nhập hai tộc Âu, Lạc, lẫn lần chiến đấu vừa rồi, tôi nhận thấy rằng cần phải thay đổi để có thể có kết quả tốt hơn. Không nên chỉ bó buộc suy nghĩ trong một khuôn khổ nhất định. Vậy nên tôi vẫn muốn rời thành, mong hai ngài cho phép!”

“Ha ha ha! Tốt! Tốt! Quả là xứng làm một vị vua! Cậu chính thức thông qua! Thưa cha, ngài có nghĩ thế không?” Vua Hùng vuốt râu cười thích chí.

Lạc Long Quân cũng mỉm cười gật đầu. 

“Thực ra…” Vua Hùng nói tiếp “Cũng không phải không có cách. Đấy là lý do ta dẫn cậu tới đây hôm nay. Ta sẽ tổ chức cho cậu một nghi thức kế thừa, sau khi nghi lễ kết thúc, bản thân cậu sẽ là vật trung gian dẫn truyền sức mạnh của ngài Lạc Long Quân. Nói cách khác, cậu ở đâu thì chính là đất nước ở đó”

“Vậy thì làm phiền ngài rồi!” Vua An Dương Vương cúi đầu, cảm tạ rối rít.

huyền sử truyền thuyết huyền huyễn cổ tích
Còn lại: 5