Truyền thuyết thành An Dương Vương - Triệu Đà (P1) - Thống lĩnh chín vị chúa Mường

Ảnh đại diện
Ngọc Nguyễn Cộng tác viên

An Dương Vương và Triệu Đà, chính là hai trong số rất nhiều nhân vật gây tranh cãi rất nhiều trong lịch sử nước Việt Nam ta. Bởi lẽ, thời đại đời Hùng Vương - An Dương Vương chính là thời đại đầu tiên trong quá trình dựng nước và giữ nước, ảnh hưởng rất lớn đến nguồn gốc dân tộc ta. Vậy nên, An Dương Vương thực sự là ai? Nguồn gốc từ đâu? Triệu Đà có đáng được để coi là một vị vua của nước Văn Lang - Âu Lạc không? Chúng ta hãy cùng trải nghiệm qua câu chuyện sau nha!

Vào đời Hùng Vương thứ mười tám, ở phía bắc nước Văn Lang là một đất nước nhỏ tên là Nam Cương. Vua của Nam Cương là Thục Chế có một đứa trẻ tên là An Dương Vương, tên húy là Thục Phán. Tương truyền, vào ngày An Dương Vương ra đời, một vệt sao chổi rất lớn quẹt ngang như muốn rẽ đôi bầu trời. Lạc Long Quân đang nằm nghỉ trên núi Tản Viên nhìn thấy sao chổi rơi về phía con sông Tả Giang, ngài đưa mắt nhìn về phía đó thì thấy sông Tả Giang chuyển thành một màu vàng óng, lấp lánh trong đêm. Lạc Long Quân thở dài:

“Vậy là… Ngày này cũng tới rồi sao…”

Thục Chế là một vị vua rất tài năng, có khả năng đoàn kết lòng dân cũng như khiến dân nghe, dân phục. Nhờ điều đó, Thục Chế đã quản lý được đất nước Nam Cương được tới hơn năm mươi năm. Nhưng nếu so với nước Văn Lang bên cạnh, nơi mà mỗi đời vua Hùng cai trị tới tận hơn trăm năm thì con số này đúng là còn kém xa. Còn vua Thục Chế khi mới ngoài bảy mươi đã cảm thấy thân thể vô cùng yếu ớt, tinh thần không còn được minh mẫn như xưa, ông vẫn luôn rất tò mò và hiếu kỳ, muốn biết làm sao mà các vị vua Hùng có thể sống và cai quản đất nước được lâu như vậy.

Khi Thục Phán được sinh ra, thì cha ngài, Thục Chế, cũng đã ở độ tuổi bát tuần. Nhưng cũng vì vậy, bao nhiêu sóng gió cuộc đời tích lũy lại thành kinh nghiệm, Thục Chế đều dùng để truyền dạy hết cho cậu con trai Thục Phán bé nhỏ. Thục Chế thường xuyên đưa con trai đi thăm quan, chào hỏi dân làng, quan sát việc dựng nhà, trồng trọt, chặt cây của nhân dân. Thục Phán còn nhỏ khi thấy cha đi đến đâu cũng được mọi người nhận ra và chào hỏi thì ngưỡng mộ vô cùng. 

Nhưng cũng chính bởi lẽ cái bóng của cha quá lớn, Thục Phán càng ngày càng cảm thấy bị lu mờ, áp lực. Mọi người ai gặp cũng đều gọi ngài là “con trai ngài Thục Chế” thay vì cái tên Thục Phán. Điều ấy khiến ngài Thục Phán thấy tự ti vô cùng. Ngài quyết tâm sẽ có một ngày phải trở thành một người vĩ đại hơn cả cha ngài nữa. Bên cạnh việc đi cùng cha để học tập, ngài Thục Phán còn tự mình học thao lược, cáo loại vũ khí cũng như ghi chép lại rất cẩn thận cách vua cha đối xử với mọi người, với kẻ có tội và người có công. 

Thục Mô là cháu của Thục Chế, hắn hơn Thục Phán tầm năm tuổi. Tuy tuổi nhỏ, nhưng Thục Chế đã luôn đêm ngày nghĩ đến ngôi vị của Thục Chế. Hắn đã lên kế hoạch để tiếp cận Thục Phán ngay từ khi còn nhỏ. Ngày đầu tiên hắn gặp Thục Phán chính là ở bên bờ sông Tả Giang.

Đó là một ngày nắng đẹp, Thục Phán đang chơi đùa bên bờ sông Tả Giang thì bỗng một bóng đen đột ngột tiến tới từ đằng sau đẩy Thục Phán ngã xuống bờ sông. Đó là một thằng bé hơn Thục Phán vài tuổi, nhưng người nó dài và gầy, lướt da đen sạm, hàm răng từng chiếc to nhỏ không đều.

“Au! Anh là ai vậy?” Thục Phán hỏi.

“Tau nghe là Chủ Thục Chế có con trai, tới xem nó thế nào. Mà hóa ra nó yếu quá, làm tau cứ tưởng…”

“Tưởng gì?”

“Không… Không có gì” Thục Chế vội xoa tay phủ định.

“Nhưng mà anh là ai?”

“À à! Tau là Thục Mô (蜀牟), có nghĩa là to lớn và vang vọng. Chứng tỏ…” Thục Mô giang hai tay ngẩng lên trời “Sau này tên tuổi của tau sẽ vang vọng khắp nơi!” xong nó nhìn xuống Thục Phán đang ướt sũng, nắm lấy tay Thục Phán kéo lên hỏi:

“Vậy mi tên mô?”

“Em… Tôi tên Thục Phán (蜀泮), có nghĩa là vùng lãnh thổ rộng lớn…”

Thục Mô khoác tay lên vai Thục Phán:

“Hừm… Tên tuổi vang vọng và lãnh thổ rộng lớn à…”

Thục Mô đột ngột mắt sáng rỡ nhìn sang Thục Phán:

“Có khi nào sau này mi sẽ làm tướng, đánh chiếm được rất là nhiều đất đai còn tau sẽ lên làm vua của cả vùng rộng lớn đó không?”

“Có… Có lẽ…”

“Được rồi! Đã vậy tau sẽ phải dạy mi thật cẩn thận từ giờ để sau này mi trở thành tướng Chủ lực của tau!” Thục Mô nhìn Thục Phán bằng ánh mắt đầy khí thế.

Năm năm sau đó, Thục Phán chăm chỉ học tập từ ba vị thầy, cha, Thục Mô và học từ tự chính bản thân mình. Nhờ đó, tuy mới mười tuổi, Thục Phán đã vô cùng tài trí, với vóc dáng nhỏ bé đã có thể đánh võ thắng cả những thanh niên trai tráng tuổi ngoài hai mươi. Vị trí của Thục Mô dường như đã được định sẵn là sẽ nhường cho ngài.

Tuy nhiên có chín vị chúa Mường, gồm ba Nùng chủ, hai Dao chủ, một Mán chủ, một Sán chủ, một Tày chủ, một Miêu Chủ lại không hề tán thành với ý định này của Thục Mô. Mỗi người bọn họ lại có một sở trường rất riêng khiến Thục Chế vô cùng kiêng kị.

Ba vị Nùng chủ, một người có khả năng múa kiếm uyển chuyển như quất roi, một người có khả năng dùng chuông để liên lạc với các Linh, một người thì có đôi mắt âm dương để nhìn thấy Linh. Ba người họ kết hợp lại có thể triệu gọi và sai khiến bất cứ Linh nào ở quanh núi. Hai dao chủ, một nam một nữ, họ tu luyện một môn võ công phối hợp giữa rắn và mềm, mạnh mẽ và nhẹ nhàng, tương truyền bất cứ ai bước vào phạm vi tấn công của họ sẽ bị hút vào mà ăn trọn các đòn tấn công. Những người còn lại cũng có những khả năng vô cùng kỳ quái như sức khỏe phi phàm có thể nhấc bổng ba bò chín trâu chỉ bằng một tay, hạ độc đối thủ mà không để ai phát giác,...

Vào ngày cuối đời, Thục Chế rất muốn để truyền ngôi cho con nhưng Thục Phán khi đó còn quá nhỏ, hoàn toàn không thể đấu lại chín vị Nùng Chủ kia. Thục Chế cho gọi Thục Phán và Thục Mô vào trong buồng để nói chuyện riêng, tất cả những kẻ hầu người hạ lẫn các bà vợ của ông đều được kêu xuống dưới lầu. Thục Chế nắm lấy tay Thục Phán hồi lâu, hai mắt long lanh nhưng chẳng thể nói nên lời. Thục Mô ngồi nhìn hồi lâu sốt ruột, hai tay vỗ đùi cất tiếng:

“Có phải là người đang e ngại các vị Nùng Chủ phải không? Con có một cách!”

Thục Chế và Thục Phán bất ngờ quay ra nhìn Thục Mô. Thục Mô liền nói thầm cho họ kế hoạch của mình. Nghe xong, Thục Chế nằm trên giường cũng phải vừa ho vừa cười:

“Ha ha! Được! Khụ! Được! Khụ khụ! Kế hay! Kế hay!”

Sau đó Thục Chế nắm lấy tay Thục Mô mà ngước lên nhìn cậu ta:

“Vậy thì… Sau này trăm sự nhờ con chăm lo cho Thục Phán giúp ta. Cám ơn…”

Thục Chếchưa kịp dứt lời thì hơi thở cuối cùng của ngài đã tắt. Thục Mô nhẹ nhàng cầm tay Thục Chế, đặt lại lên ngực ngài, đứng dậy cúi đầu thể hiện sự tôn trọng. 

Sau đó Thục Mô cùng Thục Phán bước xuống dưới lầu, trịnh trọng tuyên bố rằng ngài Thục Chế đã từ giã cõi đời. Bà dân quanh làng đều khóc lóc nức nở, thương tiếc vô cùng. Các Nùng Chủ cũng tỏ ra rất tiếc nuối cho sự ra đi của ngài Thục Chế, vì đối với họ, ngài Thục Chế chính là người mà họ kính trọng nhất. Nhưng buồn chỉ là một phần, phần tâm trí còn lại của chín vị Nùng Chủ để lắng nghe tuyên bố về việc ai sẽ là người kế ngôi của ngài Thục Chế. 

Sau khi tuyên bố tin buồn của ngài Thục Chế, Thục Mô đã trịnh trọng nói lớn:

“Ngài Thục Chế, một vị vua đại tài của chúng ta đã rất muốn truyền ngôi cho con trai ngài là Thục Phán…”

Nghe tới đó, các Nùng Chủ đã vô cùng kích động định lao lên phản đối.

“Tuy nhiên…” Thục Mô nói tiếp.

“Ngài Thục Chế cũng nhìn thấy chín vị Nùng Chủ vô cùng mạnh mẽ… Rất đáng để trở thành vua của nước Nam Cương” Thục Mô nhấn mạnh.

“Vậy nên…” Thục Mô ngập ngừng.

“Có gì vậy nói luôn đi chứ!” Mán Chủ tức giận lên tiếng.

“À thì… Ngài Thục Chế muốn các ngài giống như cha ông khi xưa, thi đấu để lựa chọn người chiến thắng làm vua.”

“Ha, thằng nhóc này bịa chuyện cũng giỏi đấy. Ai mà chả biết ngài Thục Mô luôn muốn đoàn kết người dân? Chẳng lẽ ngài ấy lại chỉ vì…Ối!”

Không để Miêu Chủ kịp nói hết, một khúc cây lớn bay vụt tới khiến Miêu Chủ phải vội lăn người né sang một bên.

Mán Chủ tay vác khúc cây lớn, nói:

“Sao vậy? Chẳng lẽ ngươi sợ sao? Hay là ngươi định nghi ngờ người được ngài Thục Chế gọi vào để nghe lời trăn trối? Ngươi không tin khả năng nhìn người của ngài ấy sao?”

“À… Hóa ra là tên lỗ mãn nhà ngươi. Ta thì sợ gì chứ?” Miêu Chủ hai tay cầm hai cái rựa nhảy tới.

Ba vị Nùng Chủ nhanh chóng gọi ra biết bao là âm hồn người đã khuất, họ đều là những chiến binh vô cùng mạnh mẽ của nước Nam Cương, ba người ra lệnh cho những âm hồn ấy lao tới tấn công hai vị Dao chủ. Các Nùng Chủ còn lại cũng thấy thế mà bắt đầu tranh đấu. Cuộc chiến nảy lửa xảy ra liên tục suốt ba tháng trời không phân thắng bại. Trong suốt khoảng thời gian ba tháng ấy, Thục Mô hỗ trợ Thục Phán, cùng bà con ổn định cuộc sống và giải quyết các vấn đề gặp phải. Sau ba tháng, mọi người dân trong nước đều vô cùng tín nhiệm cặp anh em Mô, Phán. Cuối cùng, tất cả các Nùng Chủ đều đã kiệt sức, Thục Mô mới đứng ra, trịnh trọng tuyên bố Thục Phán là người chiến thắng.

“Ta không phục! Chẳng phải ngươi bảo phải thi đấu sao? Tên nhóc đó đâu có thi đấu?” Miêu Chủ cất lời.

“Phải! Tôi nói thi đấu mà, có bảo đấu võ đâu?” Thục Mô đứng khoanh tay nở nụ cười ranh mãnh.

“Ngươi…!” Mán Chủ tức giận đấm xuống đất định nhảy vồ tới.

“Ấy khoan! Nhưng mà ta không có lừa các vị, quả thật là ngài Thục Chế đánh giá rất cao mọi người. Nhưng mọi người nghĩ xem, một vị vua chỉ cần sức mạnh là đủ hay sao? “Vả lại, nếu bất cứ vị Nùng Chủ nào ở đây lên ngôi vua. Liệu tất cả các vị Nùng Chủ khác có tán thành không?”

Thấy các vị Nùng Chủ đã gật gù đồng ý, Thục Mô nói tiếp:

“Vậy nên, cuối cùng chẳng phải chọn Thục Phán, con trai của ngài Thục Mô làm người kế vị, mới thực sự là một sự lựa chọn chính xác hay sao?”

“Nhưng…Ưm… Ực… Ực…”

Không để Miêu Chủ nói tiếp, Thục Mô đã cầm một cốc dung dịch đổ vào miệng ông ta.

“Ngài thấy sao? Ngon Chủ phải không? Đó là rượu ngô do ngài Thục Phán đây cùng bà con dân tộc Miêu nghĩ ra đấy! Ngài ấy không chỉ chăm chăm đánh nhau mà còn rất lo lắng cho cuộc sống của người dân nữa” Thục Mô ngửa tay hướng về phía người dân đang tập trung xung quanh.

Khi Miêu Chủ ngẩng đầu lên nhìn thì thấy bà con răm rắp gật đầu đồng ý. Lúc bấy giờ Miêu Chủ mới nhận ra, là hắn đã sai, hắn đã quên đi lời hứa ban đầu với ngài Thục Chế là đem việc lo lắng cho đời sống của nhân dân lên làm đầu. Miêu Chủ ngập ngừng:

“Ừm… Cũng được… Ta sẽ đồng ý nếu…”

“Nếu sao vậy?”

“Nếu ngươi cho ta thêm chén nữa!”

“Ha ha! Cái này thì phải hỏi vị tân vương của chúng ta. Ngài nghĩ sao vậy Thục Phán?”

Thục Phán lúc này mới bước lên, lễ phép cầm chén rượu giơ trước mặt mọi người:

“Phải! Đây cũng là ý định của ta. Nhân ngày ta nhận chức vị vua của Nam Cương, ta muốn kính mọi người một ly!”

Nói rồi Thục Phán một hơi uống hết sạch ly rượu.

“Tại sao lại là một ly! Phải say! Say bí tỉ chứ! Không say không thôi!” Miêu Chủ hô lên.

“Được! Vậy thì không say không thôi!”

“Này Miêu chủ, cái thứ rượu ngô này ngon thật à?” Mán Chủ khoác vai Miêu Chủ thì thầm.

Miêu Chủ liền cầm chén rượu trong tay đổ thẳng vào miệng Mán chủ. Dòng rượu ngô đậm đà, thơm ngào ngạt, ngọt lịm, kết hợp cùng cái hương thơm đặc biệt từ men lá rừng khiến ngay khi rượu vừa chạm đầu lưỡi đã khiến tinh thần con người ta trở nên tê dại. Sau ấy, cái vị cay nồng sẽ xực thẳng lên, công phá mọi điểm trong khoang miệng và cuống họng khiến người uống không kịp phản ứng đã ngây ngất tự bao giờ. Ngay cả một kẻ cường tráng như Mán Chủ cũng đỏ mặt quay cuồng, miệng cứ cười hềnh hệch như tên ngốc. Các vị chúa Mường còn lại thấy vậy cũng tò mò uống thử, và biểu cảm của họ cũng lại giống hệt Mán chủ. Và thế là cả nước Nam Cương mở hội linh đình, rượu chè vui vẻ, ăn uống hát hò từ sáng tới khuya, từ ngày này qua ngày khác.

Tới khi mọi người đã say mèm ra, nằm vật vờ khắp nơi, Thục Mô mới nằm dựa vào Thục Phán đang ngồi trên một khúc gỗ lớn, nói:

“Sao vậy? Rượu này không đủ đô với vị vua của chúng ta sao?”

Thục Phán cười gượng:

“Anh cũng biết em mới mười tuổi, đâu có uống nhiều được”

“Ha ha! Hỏi vậy thôi Chủ kẻ hèn này biết mà”

“Kẻ hèn gì chứ? Mọi chuyện đều nhờ anh cả, mà em sau này còn phải trông cậy vào anh nữa chứ”

“He he! Đùa thôi, đùa thôi”

Thục Phán nhìn Thục Mô bằng ánh mắt dịu dàng:

“Nhưng anh không chỉ định nói với em mấy câu đùa này thôi đâu phải không?”

Thục Mô bật tôm đứng dậy. Thục Mô khoanh tay quay lại nhìn Thục Phán:

“Chúng ta hãy chiếm lấy vùng Văn Lang đi!”

“Anh… Nói thật ư?”

“Ừ! Chẳng phải Chủ Thục Chế cũng rất tò mò bí quyết của các vị vua Hùng sao?”

“Nhưng… Liệu có nổi không? Vả lại chẳng phải nên Chủ trọng cuộc sống của nhân dân sao? Sao lại đi gây chiến?”

“Thì mở rộng bờ cõi! Nhân dân ta sẽ càng có có nhiều đất, học hỏi được từ những dân tộc khác nữa! Buôn báo, trao đổi cũng lớn hơn!”

“Nhưng… Liệu các vị Nùng Chủ có đồng ý không? Chúng ta mất bao tâm huyết mới thuyết phục được”

“Ây! Còn suy nghĩ gì nữa, chiến thôi!” Mán Chủ lên tiếng.

“Phải đó. Ta cũng đồng ý!” Miêu Chủ giơ tay lên.

“Bọn ta cũng vậy” hai vị Dao Chủ đồng thanh.

“Chúng tôi cũng thế!” Các vị Nùng Chủ khác cũng đồng thời lên tiếng

“Các vị Nùng chủ? Các vị vẫn còn tỉnh ư?” Thục Phán ngạc nhiên. 

“Ha ha! Uống có tí rượu như này mà say thì sao bọn ta là Nùng Chủ được chứ!” Miêu Chủ đáp.

“Phải phải! Chí ít thì cũng phải năm vò rượu như này mình ta uống mới đủ ngất ngây!” Dao Chủ nói đế thêm vào.

“Được! Vậy chúng ta sẽ chuẩn bị trong mười năm. Sau mười năm nữa, chúng ta sẽ tiến đánh Văn Lang. Sau khi chiếm được Văn Lang, ta sẽ mời mỗi người năm vò rượu ngô!” Thục Phán nói lớn.

“Tán thành!” Các vị Nùng Chủ đồng thanh trả lời.

huyền sử truyền thuyết huyền huyễn cổ tích
Còn lại: 5