“Hoàng Thái hậu sinh ra đã có tư chất cao quý thuần hóa, thiên tư cẩn thận, luôn luôn cần kiệm, không thích xa hoa", "dùng lễ để thờ người trên, lấy ân để tiếp kẻ dưới”, “lấy đức cần kiệm để giáo hóa thiên hạ, dùng điều khoan hậu để khuyên bảo quan gia, cung kính tông miếu, thờ phụng quỷ thần, điều không đúng lý không làm, việc mà bất chính không đoái”. Bà là người “ nghiêm nhưng không ác, giản dị mà đàng hoàng, chăm chỉ tuân theo lễ pháp, rất ít ra khỏi phòng riêng ”, “vàng lụa được ban cấp đều đem ban phát cho mọi người, thường thương xót chu cấp cho người nghèo, hòm rương luôn trống rỗng chẳng có gì tích trữ làm của riêng ”. “Trong cung không kẻ sang người hèn nào không gọi là Phật sống”, “ tuổi tác càng nhiều tinh thần càng mạnh, tính vốn hiếu học lại biết làm thơ, thường đem thư truyện dạy dỗ con cháu”, “ Thánh Tông Hoàng đế tuy là bậc hùng tài đại lược, thần vũ anh minh nhưng luôn kính cẩn chuyên cần nghe theo lời dạy bảo của Thái hậu”.

Một trong số 12 bảo vật quốc gia của Việt Nam được công nhận đợt 3 ngày 14/1/2015 là Bia Khôn Nguyên Chí Đức Chi Bi hay còn gọi Bia Quang thục Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao có niên đai từ thế kỷ 15, hiện đang được lưu giữ ở khu di tích Lam Kinh của triều Lê sơ. Theo tài liệu lịch sử, văn bia do tiến sĩ Nguyễn Bảo và tiến sĩ Nguyễn Xung Xác soạn, được tạc dựng năm Cảnh Thống thứ nhất (1498) đời vua Lê Hiến Tông (cháu nội của bà). Trên văn bia viết “Hoàng Thái hậu sinh ra đã có tư chất cao quý thuần hóa, thiên tư cẩn thận, luôn luôn cần kiệm, không thích xa hoa, may vá thêu thùa chẳng rời tay, cỗ bàn cơm rượu rất biết cách, lúc nhàn rỗi cũng nghiêm trang như tiếp tân khách, đối xử với mọi người luôn giữ vẻ ôn hòa”. Sinh thời Thái hậu “dùng lễ để thờ người trên, lấy ân để tiếp kẻ dưới”, “lấy đức cần kiệm để giáo hóa thiên hạ, dùng điều khoan hậu để khuyên bảo quan gia, cung kính tông miếu, thờ phụng quỷ thần, điều không đúng lý không làm, việc mà bất chính không đoái”. Bà là người “ nghiêm nhưng không ác, giản dị mà đàng hoàng, chăm chỉ tuân theo lễ pháp, rất ít ra khỏi phòng riêng ”. Thường ngày Thái hậu năng thờ Phật, sống nhân ái bao dung, “vàng lụa được ban cấp đều đem ban phát cho mọi người, thường thương xót chu cấp cho người nghèo, hòm rương luôn trống rỗng chẳng có gì tích trữ làm của riêng ”. “Trong cung không kẻ sang người hèn nào không gọi là Phật sống”, “ tuổi tác càng nhiều tinh thần càng mạnh, tính vốn hiếu học lại biết làm thơ, thường đem thư truyện dạy dỗ con cháu”, “ Thánh Tông Hoàng đế tuy là bậc hùng tài đại lược, thần vũ anh minh nhưng luôn kính cẩn chuyên cần nghe theo lời dạy bảo của Thái hậu”. Văn bia khẳng định: “ Lễ nhạc văn chương được rạng rỡ, sĩ phong dân tục bỗng chốc thuần hậu đều nhờ ở sức của Thái hậu”. Điều đó thấy Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao là một nữ nhân Đại Việt vô cùng đặc biệt, công dung ngôn hạnh, đức độ khiêm cung, là người mẹ hiền đã nuôi dạy nên một trong những vị vua vĩ đại trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Dòng dõi trâm anh, gia thế hiển hách
Ngô Thị Ngọc Dao là một trong số các phi tần của vua Lê Thái Tông, vị vua thứ 2 của triều đại Lê sơ. Triều Lê sơ, các vua thường không lập Hoàng hậu mà chỉ phong tới bậc phi, bà phi nào có con trai được nối ngôi thì lúc qua đời vua con mới truy phong tước vị Hoàng hậu. Vua Thái Tông từng nhiều lần lập phi: Nguyên phi Lê Thị Ngọc Dao, Huệ phi Lê Nhật Lệ, Quý phi Dương Thị Bí, Thần phi Nguyễn Thị Anh, song Ngô Thị Ngọc Dao chỉ ở bậc Tiệp dư (dưới bậc tam phi cửu tần). Ban đầu người viết những tưởng là do gia thế mà bà có phẩm vị thấp hơn các phi tần khác, nhưng không, càng tìm hiểu mới càng nhận ra Thái hậu vốn xuất thân dòng dõi trâm anh, là hậu duệ của các vị công thần đầu triều Lê sơ.
Quang Thục hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao người làng Động Bàng, huyện Yên Định, phủ Thanh Hóa. Ông nội bà là Ngô Kinh, gia thần của Lê Khoáng (cha của Lê Lợi) và sau đó là Lê Lợi, mất trước khởi nghĩa Lam Sơn, sau được truy Thái phó, tước Hưng quốc công. Cha bà là Ngô Từ, là gia thần họ Lê, là người được Lê Khoáng giao nhiệm vụ nuôi con út Lê Lợi. Năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi khởi binh ở Lam Sơn, Ngô Từ giữ gìn căn cứ Chí Linh, trông nom của cải, khi thì bổ sung quân số cho mặt trận, khi thì dùng kỳ binh đánh đuổi quân Minh khi chúng vào cướp phá Lam Kinh. Ông là khai quốc công thần hàng đầu nhà Hậu Lê, sau được tặng Tuyên phủ sứ Thái từ Thiếu bảo Quan nội hầu, được tặng Chương Khánh công, gia tặng Ý Quốc công, sau được cháu ngoại Lê Thánh Tông gia tặng là Diên Ý Dụ vương. Mẹ của bà là Đinh Thị Ngọc Kế, là con gái của danh tướng Đinh Lễ. Bà ngoại của Thái hậu họ Trần, húy là Ngọc Huy, là hậu duệ của Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật. Như vậy Ngô Thị Ngọc Dao là cháu ngoại của Đinh Lễ, cháu họ của Đinh Liệt và cũng là hậu duệ hoàng tộc triều Trần. Trong khi đó đại thi hào Nguyễn Trãi vốn là cháu ngoại của Trần Nguyên Đán – hậu duệ của Chiêu Minh vương Trần Quang Khải, thành thử Thái hậu cũng có họ hàng xa với cụ Ức Trai. Có một điểm đặc biệt Đinh Lễ là cháu gọi Lê Lợi bằng cậu, như vậy xét về vai vế họ hàng thì bà gọi chồng mình, vua Lê Thái Tông bằng “ông trẻ” =)).
Theo một số tư liệu, Ngô Thị Ngọc Dao đã sớm mồ côi mẹ. Xét về tuổi tác Thái hậu sinh năm 1421, khi đó cha bà –Ngô Từ (1370) đã ở tuổi 51 nên rất có thể bà là con gái út của chính thất, khi sinh bà được một thời gian thì mẹ bà không may qua đời. Sau đó, ông Ngô Từ lấy bà Đinh Thị Ngọc Son làm kế thất, bà Ngọc Son lại là cháu gọi bà Ngọc Kế là cô ruột (thời phong kiến chuyện này vốn không phải là hiếm). Có lẽ vì vậy mà từ khi còn nhỏ Ngô Thị Ngọc Dao được bà ngoại Trần Ngọc Huy đem về nuôi nấng. Trong số các chị gái của Thái hậu có bà Ngô Thị Ngọc Xuân trước đó đã được tuyển vào cung hầu vua Lê Thái Tổ.
Đế vương xiêu lòng, hậu cung sóng gió
Theo gia phả Ngô tộc, năm 1436, khi Ngô Thị Ngọc Dao 16 tuổi, nhân lúc vào thăm chị ruột là Ngọc Xuân (vốn là cung nhân của Thái tổ Lê Lợi) còn đang ở trong cung, bà được vua Lê Thái Tông để ý rồi cho giữ lại làm cung nhân.
Hậu cung của vị vua trẻ Lê Thái Tông có thể gọi là nơi “phong ba bão táp” không ngơi. Chỉ trong vòng 4 năm từ 1437 tới 1441, nhà vua liên tục 4 lần phế lập quý phi. Tháng 7 năm 1437, Nguyên phi Lê Thị Ngọc Dao bị phế truất làm dân thường cùng lúc cha của bà là Đại tư đồ Lê Sát bị vua kết tội “ngầm nuôi bọn võ sĩ, mưu hại người trung lương, mưu kế gian giảo” và ban cho tự tử, tịch thu toàn bộ gia sản. Liền đó vua giao quyền hành trong triều cho Đại đô đốc Lê Ngân và lập con gái ông- Chiêu nghi Lê Nhật Lệ làm Huệ phi. Tháng 11 năm 1437, có người cáo giác Đại đô đốc Lê Ngân lập miếu thờ Phật, làm bùa chú trong nhà để cầu mong cho con gái mình là Huệ phi được vua yêu. Lê Ngân bị vua phế truất, bắt tự vẫn ở nhà, tịch thu gia sản đồng thời giáng Huệ phi Nhật Lệ xuống bậc Tu dung. Như vậy Nguyên phi và Huệ phi vì có cha là đại thần nên đều bị phế truất theo công cuộc dẹp bỏ quyền thần trong triều của Lê Thái Tông. Lúc này vị vua 16 tuổi tự mình nắm toàn quyền bộ quyền lực chính trị. Tới năm 1439 vua sủng ái Dương Thị Bí phong làm Quý phi, bà sinh hạ cho vua cặp song thai long phụng là Hoàng trưởng tử Lê Nghi Dân và Vệ Quốc công chúa Lê Thị Ngọc Đường. Không lâu sau, Lê Nghi Dân được vua lập làm Hoàng thái tử. Dương phi vì có con làm Thái tử và do việc tranh giành quyền lực trong cung mà bị nghi là ỷ sủng sinh kiêu, ức hiếp người trong cung, tới năm 1441 bị phế truất, giáng làm Chiêu nghi, rồi sau đó tiếp tục bị giáng làm thứ nhân, cùng đó truất ngôi Hoàng thái tử của Nghi Dân. Cùng năm đó vua phong Nguyễn Thị Anh làm Thần phi và lập con trai bà là Hoàng tam tử Lê Bang Cơ làm Hoàng thái tử, phong Hoàng trưởng tử Lê Nghi Dân làm Lạng Sơn vương, Hoàng thứ tử Lê Khắc Xương làm Tân Bình vương. Ngần ấy sự kiện cho thấy cuộc cạnh tranh giành ngôi vị quý phi và thái tử trong hậu cung của Lê Thái Tông cam go, khắc nghiệt tới chừng nào. Trong suốt những năm đó, chứng kiến sự tàn khốc của quyền lực và danh vọng, có lẽ Ngô Thị Ngọc Dao đã chọn cách tự giấu mình để tránh đương đầu với tranh đấu. Trong số các bà vợ của vua Lê Thái Tông, ngoại trừ Dương Thị Bí sinh cho vua một cặp song sinh thì Ngô Tiệp dư là người duy nhất hai lần sinh nở: người con đầu là Thao Quốc công chúa Lê Thị Ngọc Phương (khoảng năm 1438) và người con thứ hai là hoàng tử út Lê Tư Thành tức vua Lê Thánh Tông (năm 1442). Điều đó cho thấy Ngô Thị Ngọc Dao vốn dĩ vẫn luôn được vua sủng ái. Xét về gia thế bà còn có xuất thân từ gia tộc đại công thần, tốt hơn hẳn nếu đem so với Dương Thị Bí (có anh trai là Thái y) và Nguyễn Thị Anh (không rõ gia thế có lẽ chỉ là dân thường). Vậy thì vì lẽ gì mà vua Lê Thái Tông lại không đưa bà lên ngôi vị đứng đầu hậu cung cơ chứ? Người viết mạo muội suy đoán rằng, có lẽ là bởi chính bà bằng sự khéo léo và đức hạnh của mình đã chủ động ẩn mình, bà chọn cách chỉ an phận làm một phi tần cấp thấp để đổi lấy sự bình an trong chốn thâm cung đầy rẫy những mưu toan và tranh đấu.
Thế nhưng sự yên bình đó cũng chỉ là tạm thời. Khi Ngô Tiệp dư mang thai lần thứ 2 (năm 1442) thì sóng gió đã tìm đến tận cửa cung điện của mẹ con bà. Sử sách không chép rõ chỉ biết là Tiệp dư bị vu oan hãm hại rồi bị đẩy ra khỏi hoàng cung khi đang mang thai. Có thuyết kể lại bà nằm mơ thấy Thượng đế sai Kim đồng đầu thai làm con bà nên Thần phi Nguyễn Thị Anh vì ghen ghét, lo sợ con bà làm ảnh hưởng tới ngôi vị thái tử Lê Bang Cơ mà ra tay ám hại Tiệp dư. Người viết cho rằng chi tiết này là câu chuyện đời sau thêm thắt vào, bởi lẽ một người thông mình và hiểu thế thời, nhìn thấu lẽ đời chốn thâm cung như Ngô Tiệp dư, giả sử như bà có mơ như vậy thật thì cũng chẳng bao giờ để lộ ra cho người khác biết. Có tư liệu thì nói rằng Nguyễn Thần phi xúc xiểm với nhà vua rằng Tiệp dư âm mưu hãm hại Thái tử, rồi bà có mang thai quá 10 tháng mà chưa sinh rõ là mang thai yêu quái báo hại Hoàng gia, xui khiến vua xử tội bà. Nhờ có người trong hoàng tộc và vợ chồng Nguyễn Trãi đứng ra can gián nhà vua nên cuối cùng Ngô Tiệp dư bị đưa ra ở chùa Huy Văn chờ ngày sinh nở. Giả thuyết này có lẽ cũng là người thời sau tìm cách lý giải sự việc mà đưa ra như vậy. Song chuyện Ngô Thị Ngọc Dao bị người trong hậu cung vu oan là thật và bà bị đưa ra khỏi Hoàng cung trước khi sinh hoàng tử Lê Tư Thành cũng là sự thật. “Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng”, trong vòng xoáy giành giật ngôi vị chốn hậu cung, Ngô Thị Ngọc Dao trở thành nạn nhân của âm mưu ám toán, bà bị kết tội, bị đuổi ra khỏi cung ngay trong thai kỳ chuẩn bị sinh nở và phải rời xa con gái đầu lòng của mình cả mấy năm ròng sau đó.
Từ trong tro tàn, phượng hoàng tung cánh
Có lẽ chính bản thân Ngô Tiệp dư cũng không ngờ rằng bị đuổi khỏi hoàng cung đúng lúc đang mang thai đem theo oan ức lại chỉ là khởi đầu cho chuỗi ngày gian truân phía trước. Có tài liệu chép bà ở lại chùa Huy Văn và sinh hoàng tử Lê Tư Thành tại đó. Song một số nguồn tư liệu khác lại cho rằng do lo sợ Tiệp dư ở lại Đông Kinh không an toàn, có nguy cơ tiếp tục bị ám hại nên phu thê Nguyễn Trãi cùng với đại thần Đinh Liệt (người nhà bên ngoại của Tiệp dư) đã bí mật đưa bà rời khỏi chùa Huy Văn về lánh nạn ở vùng đất Đô Kỳ, Thái Bình (tư gia của họ Đinh), hoàng tử Tư Thành được sinh ra lớn lên ở đây trước khi được vua anh Lê Nhân Tông “phong được phong tước Bình Nguyên vương, vào ở kinh sư, học cùng các vương khác tại Kinh diên” năm 1445 (khi Tư Thành được 3 tuổi).
Ngô Tiệp dư hạ sinh hoàng tử Lê Tư Thành ngày 20 tháng 7 âm lịch, năm 1442 thì trớ trêu thay 2 tuần sau đó ngày 4 tháng 8 âm lịch, vua Lê Thái Tông đột ngột băng hà khi đang ở Lệ Chi Viên, Côn Sơn- tư gia của Nguyễn Trãi. Vậy là vừa sinh con trai, ngày vui chưa được bao lâu thì bà lại nhận hung tin mất chồng. Vụ án Lệ Chi Viên trở thành cái cớ triều đình quy tội Nguyễn Thị Lộ giết vua và kết án tru di tam tộc cả nhà đại thần Nguyễn Trãi. Ngày 12 tháng 8 âm lịch, triều thần nhận di mệnh tôn Hoàng thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi Hoàng đế (tức vua Lê Nhân Tông) khi mới 2 tuổi, Hoàng thái hậu Nguyễn Thị Anh buông rèm nhiếp chính. Ngày 16 tháng 8 âm lịch, triều đình hành quyết cả nhà Nguyễn Trãi. Hai bộ sử Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục cùng thống nhất cho rằng vua Lê Thái Tông bị bạo bệnh mà qua đời (nếu ở thời nay có thể xem là đột quỵ hay đột tử), Nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ và cả nhà Nguyễn Trãi đã bị triều đình xử oan rồi kết luận vội vàng, hành quyết nhanh chóng. Cho đến tận bây giờ Lệ Chi Viên vẫn được xem là “án oan thiên cổ” bi thảm nhất trong lịch sử Đại Việt. Giữa cơn mưa tanh gió máu đó, Ngô Thị Ngọc Dao chỉ có thể nén đau thương, gạt nước mắt, dồn hết tâm trí và sức lực ẩn thân náu mình nơi thôn dã để bảo vệ tính mạng và nuôi dạy đứa con thơ mang huyết mạch hoàng gia nhưng vừa lọt lòng đã mồ côi cha lại gánh thêm nỗi oan chưa được giải của mẹ. Có lẽ đó là những tháng ngày tăm tối nhất trong cuộc đời của Quang Thục Hoàng thái hậu.
Ba năm sau, có lẽ lúc này cục diện triều chính đã ổn, ngôi vị của Hoàng đế Bang Cơ đã vững, không rõ sự tình cụ thể như thế nào nhưng vua Lê Nhân Tông (thực chất là Thái hậu Nguyễn Thị Anh) hạ lệnh sắc phong tước vương cho hoàng tử Lê Tư Thành, chính thức công nhận tư cách hoàng thân cho người con út phải lưu lạc chốn dân gian của Tiên đế. Ngô Tiệp dư vì là mẹ của thân vương nên được đặc cách thăng Sung viên, coi việc thờ phụng ở Thái miếu. Đúng như câu “ông trời có mắt”, người tốt sẽ được Thần Phật che chở qua cơn bĩ cực tới hồi thái lai, mẹ con bà được đoàn tụ với người thân, trở về đúng địa vị cao quý của mình. Trong suốt 17 năm dưới thời trị vì của vua Lê Nhân Tông, Ngô Sung viên “dùng lễ để thờ người trên, lấy ân để tiếp kẻ dưới”, “cung kính tông miếu, thờ phụng quỷ thần, điều không đúng lý không làm, việc mà bất chính không đoái”. Nhờ có người mẹ hiền lương đức độ, hoàng tử Lê Tư Thành mới được bình an mà lớn. Sử quan nhận xét về vị minh quân ở thời điểm này là “sống kín đáo, không lộ vẻ anh minh ra ngoài, vui với sách vở thánh hiền, ưa điều thiện, thích người hiền, chăm chỉ không biết mệt mỏi, nên được Thái hậu yêu mến như con đẻ và được Nhân Tông coi như người em hiếm có”. Những phẩm chất ấy không chỉ cho thấy thiên tư hơn người của vua Lê Thánh Tông, mà còn là kết quả từ tình mẫu tử, từ quá trình nuôi dưỡng chăm non chu đáo, dốc lòng dạy bảo cẩn thận của Ngô Sung viên.
Con tạo xoay vần, nhân quả trùng điệp, năm Diên Ninh thứ 6 (1459) thành Đông Kinh một lần nữa chìm trong biển máu. Ngày mùng 3 tháng 10 âm lịch, Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân (con trưởng của vua Lê Thái Tông) gây binh biến, ban đêm bắc thang chia làm ba đường vào cung cấm giết chết vua Lê Nhân Tông và Thái hậu Nguyễn Thị Anh, tiếm đoạt ngôi báu. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép: “Ngày mồng 7 tháng 10, Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân lên ngôi Hoàng đế, đại xá, đổi niên hiệu là Thiên Hưng.” “Tháng giêng, năm Canh Thìn (1460), Thiên Hưng đế phong Bình Nguyên vương Lê Tư Thành làm Gia vương, Tân Bình vương Lê Khắc Xương làm Cung vương, đặc biệt cho xây phủ đệ ở bên hữu nội điện cho Gia vương Tư Thành ở.” Có thể thấy, Lê Nghi Dân ôm hận bị truất ngôi Hoàng thái tử, cộng thêm những lời dị nghị về thân thế của vua em Lê Nhân Tông (Thần phi Nguyễn Thị Anh nhập cung 6 tháng đã hạ sinh Bang Cơ) mà đảo chính, nhưng ông không xử tệ với hai người em còn lại, đặc biệt là Gia vương Lê Tư Thành hẳn là bởi tài năng, phẩm chất và cách ứng xử khôn khéo, chừng mực nên được nhiều người yêu quý của Gia vương.
Việc làm của Nghi Dân rõ ràng là “vô đạo”, “tội ác tày đình” không thể dung thứ vì vậy các huân hựu đại thần oán hận, bàn nhau lập mưu lật đổ Thiên Hưng đế. “Tháng 4 năm 1460, các tể tướng đại thần là Đỗ Bí, Lê Ngang, Lê Thụ, Lê Ê bí mật bàn việc lật đổ. Việc bại lộ, tất cả đều bị bắt giết. Sau lần đó, Lê Nghi Dân tin dùng bọn quan thần nịnh nọt không được tích sự gì, thay đổi nhiều pháp chế của đời trước, mọi người oán hờn.” Tới ngày 6 tháng 6, các đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm phát động đảo chính dẫn quân giết hết phe cánh ủng hộ Nghi Dân ở Nghị sự đường. Lê Nghi Dân bị bắt mang ra khỏi cung, bị phế truất làm Lệ Đức hầu và trao cho một dải lụa bắt phải thắt cổ tự vẫn, lúc ấy Nghi Dân mới 22 tuổi. Ban đầu, các quan bàn lập người con trai thứ hai của Thái Tông là Cung vương Lê Khắc Xương lên ngôi, song Cung vương vì sợ hãi mà từ chối. Các quan bèn tôn người con út của Thái Tông tức Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi Hoàng đế.
Ngày 18 tháng 6 âm lịch năm Canh Thìn (1460), Lê Tư Thành lên ngôi Hoàng đế tại điện Tường Quang, cải niên hiệu Quang Thuận. Vừa lên ngôi, vua đại xá thiên hạ, xử tử những kẻ theo Nghi Dân gây loạn, truy phong cho trung thần đã hy sinh trong chính biến, ban tước cho các công thần lật đổ Nghi Dân. Quang Thuận đế phát tang cho vua anh Lê Nhân Tông, rước bài vị vào Thái miếu, đặt thụy hiệu là Tuyên Hoàng đế, Thái hậu Nguyễn Thị Anh được đặt thụy Tuyên Từ Hoàng thái hậu. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, trước đó trời đã lâu không mưa, nhưng ngay sau khi rước bài vị Nhân Tông vào Thái miếu, đêm hôm sau liền có mưa lớn. Vua tôn mẹ tức Ngô Sung viên làm Thánh mẫu Hoàng thái hậu, ngự ở điện Thừa Hoa. Vua Lê Thánh Tông lên ngôi đã chấm dứt thời kỳ đổ máu vì tranh giành hoàng vị, mở ra chương mới cho triều đại Lê sơ bước vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất được hậu thế ngợi ca là “Hồng Đức thịnh trị”. Về sau vua Thánh Tông cũng ra chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, sưu tầm lại di thảo của ông và tìm lại hậu duệ lưu lạc của ông là Nguyễn Anh Vũ bổ nhiệm làm quan. Vậy là sau bao đổi thay thời cuộc, Ngô Thị Ngọc Dao- phi tần an phận thủ thường một đời không mưu toan chính trị, không tranh giành quyền lực giờ đây bước lên ngôi vị Hoàng thái hậu, địa vị cao nhất của nữ nhân thời phong kiến khi mới ở tuổi 39. Nữ nhân mang thiên mệnh Phượng hoàng trải bao đau thương gian khổ, từ trong tro tàn cất cánh bay lên.
“Phật sống” Lê triều, hậu duệ lừng lẫy
Có lẽ đã từng chứng kiến bao thăng trầm khốc liệt trên quan trường, bao đau thương hiểm ác chốn hậu cung nên mặc dù ở ngôi mẫu nghi thiên hạ nhưng Ngô Thái hậu tuyệt nhiên không can dự chính sự cũng không can thiệp chuyện hậu cung. Bà chọn sống ở điện Thừa Hoa bên ngoài hoàng cung có lẽ một phần cũng vì không muốn quay về chốn xưa đầy hoài niệm và cả bao đau thương cuộc đời. Suốt phần đời còn lại, bà thường ăn chay niệm Phật, sống giản dị, thanh đạm, sáng suốt, khỏe mạnh. Bà tâm niệm lấy mình làm gương, lấy đạo đức làm lẽ sống, lấy kiệm cần mà răn dạy người đời, lấy nhân hậu mà nhắc nhủ nhà vua, dạy bảo con cháu. Các sử gia đánh giá Ngô Thái hậu là người đã hết lòng cùng con chăm lo sự nghiệp đế vương, là một chỗ dựa tin cậy của vua Lê Thánh Tông. Bà được các đại thần đương triều đánh giá rất cao và cho rằng bà là người có công lớn với xã tắc, đặc biệt là người có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và sự nghiệp của vua Lê Thánh Tông, nuôi dạy đức vua từ nhỏ đến lúc trưởng thành, luôn kề vai sát cánh cùng đức vua trong quá trình cai trị đất nước, giáo hóa nhân dân, mở mang bờ cõi Đại Việt.
Tuy ở ngôi cao nhưng Ngô Thái hậu luôn sống cần kiệm, không xa hoa, không tích giữ của riêng. Bà cẩn trọng trong các nghi lễ, nghiêm trang cung kính nơi tông miếu. Tuy nghiêm khắc nhưng giàu tình thương, bà thường chu cấp cho người nghèo, ban phát vàng lụa. Từ con cháu đến kẻ hầu người hạ ai cũng nhận được ơn đức của bà. Vì vậy ở trong cung, mọi người đều tôn gọi bà là “Phật sống”.
Năm Hồng Đức thứ 27 (1496), Ngô Thái hậu cùng vua về Lam Kinh rồi không may mắc bệnh lỵ, vua Lê Thánh Tông và Thái tử Lê Tranh ngày đêm chầu chực bên giường bệnh, thuốc thang cơm nước tự nếm trước. Ngày 26 tháng 2, Thái hậu qua đời, thọ 75 tuổi. Lê Thánh Tông đau buồn, truy tôn bà làm Quang Thục Hoàng thái hậu. Việc khâm liệm, phạm hàm đều do Hoàng đế tự tay làm. Thi hài bà được đưa về an táng tại Sơn Lăng (Lam Kinh). Ngoài việc xây lăng mộ, vua Lê Hiến Tông (cháu nội bà) còn dựng tấm bia lớn (chính là bia Khôn Nguyên Chí Đức Chi Bi) để ghi lại công đức và cho tạc tượng, đúc chuông thờ tại điện Huy Văn.
Thêm một điều đặc biệt nữa là một năm sau khi Quang Thục Hoàng thái hậu mất, vào ngày 30 tháng 1 âm lịch năm 1497 vua Lê Thánh Tông cũng băng hà, hưởng dương 56 tuổi. Như vậy có thể nói Thái hậu đã gắn bó và chứng kiến gần như cả cuộc đời của con trai, bà vừa làm mẹ, vừa làm cha, vừa làm thầy, vừa là người bạn tâm giao tin cậy của vua Lê Thánh Tông. Các sử gia đời sau đều ca ngợi bà là người có ảnh hưởng đặc biệt và có công lớn trong việc nuôi dạy vua con Lê Thánh Tông và vua cháu Lê Hiến Tông trở thành các bậc minh quân đại tài kế nghiệp tổ tiên, phát triển đất nước. Có lẽ bởi hậu thế vô cùng yêu mến, cảm phục bà mà trong dân gian còn tương truyền lại “Thái hậu khác với người thường, khi mất dù tuổi cao mà tóc bà không bạc, răng không rụng, mắt không mờ, nhan sắc không kém sút, vẫn tươi đẹp như người trạc tuổi 40.”
Cuộc đời của Quang Thục Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao là bản hoà ca của bao nốt thăng trầm một kiếp người: sinh trong dòng dõi trâm anh nhưng lại sớm gặp cảnh mồ côi mẹ, được vua sủng ái triệu vào hoàng cung chốn vinh hiển nhưng phải chịu bao ấm ức oan khiên, đương tuổi hoa niên đã gặp cảnh goá bụa, phận nhi nữ liễu yếu đào thơ mà phải tự bảo vệ bản thân và các con ẩn nhẫn náu mình đi qua giông bão thời cuộc, dù bản thân từng cố tránh xa hoàng quyền nhưng sau cùng lại thành Thái hậu. Song ở hoàn cảnh nào, trong nguy nan gian khó hay lúc ở ngôi vị đứng đầu bà đều giữ trọn tấm lòng trung trinh thuần hậu, đức độ khiêm cung, trí tuệ sáng suốt, nhân ái yêu thương và trở thành tấm gương hiền lương thục đức cho nữ nhân Đại Việt ngàn đời.
(Nguồn tư liệu & Ảnh : Đại Việt sử ký toàn thư, Wikipedia, Internet, Việt sử kiêu hùng)
Đọc thêm:
1 Bình luận