Nữ Đế, Chuyện Chưa Kể: Kỳ 7- Thiện Đạo Quốc Mẫu Trần Thị Nguyệt: Thế Gia Chủ Mẫu

Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên


Từ thường dân, một bước trở thành nguyên phối của cháu trai đương kim Hoàng hậu, ở độ tuổi trăng tròn Trần Thị Nguyệt đã là phu nhân danh giá, sớm đảm đương trọng trách của chủ mẫu tương lai. Những tưởng người đầu tiên được Trần Liễu cưới hỏi đàng hoàng rước về làm vợ sẽ được cả đời êm ấm ở vị trí chính thất, song giữa thời buổi đất nước còn loạn lạc, bánh xe thời cuộc liên tục xoay vần thì bất cứ gia đình nào cũng ít nhiều trải qua sóng gió.
"Phúc đức tại mẫu", người mẹ hiền để lại phúc phần cho con cháu. Thiện Đạo Quốc mẫu đã sống một cuộc đời thật giống như tên huý Trần Thị Nguyệt của bà, bà chính là vầng trăng sáng giữa màn đêm, mang sự dịu dàng vỗ về an ủi cho chồng, mang ánh sáng trong trẻo thuần khiết, không chói loà mà kiên định soi tỏ cả khi bầu trời quang đãng hay lúc mây mù che phủ để nuôi dưỡng thân tâm, trao truyền đức hạnh cho con cháu, cho đời sau kế thừa.

7.Thien Dao quoc mau.jpg

(Nguồn ảnh: Internet)

1.        PHU NHÂN HÀO MÔN

Đại Việt những năm 1220, họ Trần là danh gia vọng tộc ở Hải Ấp. Xuất phát từ gia đình hào trưởng địa phương phát đạt nhờ nghề chài lưới, sau chục năm bước lên vũ đài chính trị cùng tài năng của người tộc trưởng gian hùng Trần Tự Khánh, Trần gia dần trở thành danh môn bậc nhất lúc bấy giờ. Bởi thế mà ngày thiếu nữ Trần Thị Nguyệt (Thiện Đạo Quốc mẫu sau này) thành hôn với Quan nội hầu Trần Liễu, trưởng tử của Liệu hầu Trần Thừa, cháu trai Thái uý Trần Tự Khánh, hẳn bao người tấm tắc cô gái này quả là có phúc. Tới nay, không có nhiều tư liệu sử sách ghi chép thân thế của bà, song người viết đồ rằng để lọt vào mắt xanh của thế gia như vậy, chắc chắn người phụ nữ ấy cũng phải có xuất thân tương xứng, cũng là nữ nhân có sắc có tài, có đủ công dung ngôn hạnh.

Từ thường dân, một bước trở thành nguyên phối của cháu trai đương kim Hoàng hậu, ở độ tuổi trăng tròn Trần Thị Nguyệt đã là phu nhân danh giá, sớm đảm đương trọng trách của chủ mẫu tương lai. Những tưởng người đầu tiên được Trần Liễu cưới hỏi đàng hoàng rước về làm vợ sẽ được cả đời êm ấm ở vị trí chính thất, song giữa thời buổi đất nước còn loạn lạc, bánh xe thời cuộc liên tục xoay vần thì bất cứ gia đình nào cũng ít nhiều trải qua sóng gió.

2.        CHÍNH THẤT TRỞ THÀNH THIẾP THẤT

Có lẽ cuộc đời của Trần Thị Nguyệt sẽ bằng phẳng hơn nhiều nếu không xảy ra sự việc người chú chồng đứng đầu họ Trần bấy giờ- Thái uý Trần Tự Khánh đột ngột qua đời vào năm 1223. Sau khi Trần Tự Khánh mất, quyền bính trong triều được giao cho người anh trai Trần Thừa kế tục chức vị Thái uý phụ chính, người em họ Trần Thủ Độ được giao chức Điện tiền chỉ huy sứ nắm giữ quân đội. Bằng sự khôn khéo và bản lĩnh chính trị, Trần Thừa đã nhanh chóng nắn dòng chỉnh hướng đưa vị trí trưởng tộc về lại nhánh của mình. Có nguồn sử liệu ghi rằng trước đó, con của Trần Tự Khánh là Hiển Đạo vương Trần Hải đã từng dâng lễ vật cầu hôn Thuận Thiên công chúa, trưởng nữ của vua Lý Huệ Tông. Thế nhưng sau khi Trần Tự Khánh qua đời, người được ban hôn với Thuận Thiên là Trần Liễu dù lúc này Trần Liễu đã có nguyên phối là Trần Thị Nguyệt. Bởi Thuận Thiên là công chúa thì đương nhiên ở vị trí chính thất, nên Trần Liễu phải tự thu xếp chuyện trong nhà đư Trần Thị Nguyệt xuống thành thiếp. Làm dâu hào môn thời phong kiến, hẳn Trần Thị Nguyệt hiểu rõ việc không thể mong cầu sẽ là nữ nhân duy nhất của chồng. Như các nam nhân danh môn khác, Trần Liễu cũng nạp thiếp. Song có lẽ người phụ nữ ấy chẳng thể ngờ lại có ngày mình rơi vào tình cảnh đang là chính thất lại trở thành thiếp thất. Từ vợ cả nay thành vợ lẽ, từ chủ mẫu rớt xuống thị thiếp, Trần Thị Nguyệt hẳn đã phải chịu nhiều ấm ức, tủi hổ trong lòng.

Sau lễ thành hôn với Trưởng công chúa Thuận Thiên, Trần Liễu trở thành phò mã, con rể vua và được sắc phong làm Phụng Càn vương.  Công chúa về vương phủ khi chưa tròn mười tuổi, còn non nớt, dù chẳng được làm vương phi song những năm Thuận Thiên chưa thành niên, mọi chuyện đối nội trong nhà hẳn là đều do Trần Thị Nguyệt chăm lo quán xuyến. Các tư liệu lịch sử ghi nhận rằng cuộc hôn nhân của Trần Liễu và Thuận Thiên là phu thê hoà ái, tình cảm đậm sâu. Điều này cho thấy Thuận Thiên thật sự được chồng và nhà chồng yêu thương. Từ đó ta cũng thấy được Trần Thị Nguyệt là người vợ hiền hậu, bao dung, khéo đối nhân xử thế, biết hy sinh lợi ích của riêng mình để cho gia đình êm ấm. Nếu như Thuận Thiên sinh hạ cho Trần Liễu hai người con trai là đích tử Trần Doãn (Vũ Thành vương) và Trần Quốc Khang (Tĩnh Quốc đại vương, chào đời trên danh nghĩa là con trưởng vua Trần Thái Tông sau sự biến năm 1237), thì Trần Thị Nguyệt cũng sinh ra những người con thông minh xuất chúng, tài năng đức độ cho Trần Liễu. Theo các tư liệu phả hệ Trần tộc ghi chép lại thì bà được cho là mẹ sinh của trưởng tử Trần Tung (Hưng Ninh vương, Tuệ Trung thượng sĩ), Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều (hoàng hậu của vua Trần Thánh Tông, mẹ của Phật hoàng Trần Nhân Tông).

3.        NGƯỜI VỢ TÀO KHANG

Mười mấy năm về làm vợ Trần Liễu, Trần Thị Nguyệt chứng kiến toàn bộ thăng trầm cuộc đời chồng. Bà gắn bó với ông từ thưở ông mới chỉ là thiếu gia nhành thứ tới vị trí đích tôn họ Trần; từ Quan nội hầu, cháu trai Hoàng hậu tới Phò mã, Phụng Càn vương con rể vua Lý Huệ Tông; từ Khâm Minh vương, huynh trưởng của vua khai mở triều Trần- Trần Thái Tông (năm 1225) được thăng tước Hiển hoàng Thái uý phụ chính (sau khi Thượng hoàng Trần Thừa qua đời năm 1234) rồi vì mắc tội mà bị giáng xuống làm Hoài vương (năm1236). Trong những năm tháng ấy, bà là người phụ nữ âm thầm đứng sau lưng chồng, đứng sau vương phi Thuận Thiên, âm thầm đồng hành, chăm sóc, sẻ chia gian khó, chung tay quán xuyến chuyện lớn nhỏ, những mong cho chồng vạn sự hanh thông, cho gia đình được bình an hoà hảo.

Nhưng có lẽ Trần Thị Nguyệt càng mong mỏi yên bình bao nhiêu thì ông trời càng muốn trao thêm thử thách bấy nhiêu. Dù bà đã hy sinh hết mình, đã nỗ lực hết sức, đã cam chịu thiệt thòi, an phận thứ thiếp thì sóng gió vẫn chưa dừng lại với gia đình Hoài vương. Năm 1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua đã lâu không có con, Trần Thủ Độ lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên công chúa, chính thất của Trần Liễu đồng thời là chị gái của Chiêu Thánh, đang mang thai 3 tháng làm Hoàng hậu để lấy đứa trẻ mà nhờ cậy về sau. Nhân lúc triều đình cử Trần Liễu đi xa, Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung đưa Thuận Thiên công chúa vào cung. Bất lực trước tình cảnh éo le này, vua Trần Thái Tông bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử định đi tu. Trần Liễu trở về nhận hung tin, ôm hận nỗi nhục bị cướp vợ cướp con, liền họp quân nổi loạn ở sông Cái. Một khi đã làm phản nếu thất bại sẽ là tội chết, hại cả gia đình bị xử tru di. Không ai hay tâm tư Trần Liễu lúc đó liệu có chỉ đơn thuần là bất bình mà làm phản, hay còn có cả tham vọng nắn lại dòng trưởng thứ giống như cha mình từng làm được. Nhưng với một người phụ nữ có chồng làm phản, chính thất của chồng bị đưa vào cung, là mẹ của mấy đứa con thơ, là chỗ dựa của bao nhiêu con người trong vương phủ, Trần Thị Nguyệt phải đứng trước tình cảnh ngặt nghèo, vô cùng hoang mang, lo sợ bất an. Trong 2 tuần Trần Liễu làm loạn, có lẽ bà ấy đã sống trong sợ hãi, ăn không thấy ngon ngủ chẳng yên giấc mà vẫn phải giữ vững tay chèo lái gia đình.

Dù Trần Liễu có sức trẻ, có tài năng, có dã tâm, có quân đội thì vẫn không phải là đối thủ của Thái sư Trần Thủ Độ. Với bản lĩnh gian hùng và cá tính bất chấp tất cả để đạt mục đích của mình, Trần Thủ Độ nhanh chóng rước được vua Thái Tông trở về và thẳng tay tiêu diệt đội quân làm phản. Khi biết mình thất thế, Trần Liễu đành đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Thái Tông xin tha tội. Vua Trần Thái Tông đã lấy thân mình ra che cho anh và can ngăn ông chú họ, nhờ đó Trần Liễu mới thoát chết. Hoài vương được tha tội chết nhưng toàn bộ quân lính theo ông nổi loạn đều bị xử tử. Kết cục sự biến năm 1237, Vua Trần Thái Tông buộc phải phế lập, vương phi Thuận Thiên trở thành Hoàng hậu, Trần Liễu để giữ mạng sống phải an phận làm An Sinh vương, còn Chiêu Thánh hoàng hậu bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa.

Sau sự biến, do Thuận Thiên không còn là vợ Trần Liễu nên Trần Thị Nguyệt trở lại làm chính thất như vị trí trước đây của bà. Thế nhưng chồng bà đã không còn là Trần Liễu của trước đây, gia đình bà cũng không còn được sum vầy sớm tối. Chính sử không ghi chép rõ nhưng người viết đồng thuận với nhận định của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sau sự việc trên, các con của Trần Liễu bị tách khỏi cha mình và trở thành con tin ở kinh thành trong khi gia đình Trần Liễu chuyển tới đất An Sinh (Quảng Ninh ngày nay). Điều đó cũng có nghĩa rằng Trần Thị Nguyệt phải  lìa xa các con để theo chồng rời đi. Trần Liễu phẫn uất vì mối hận bị cướp vợ cướp con, bất lực vì mất hết quân đội phải chứng kiến quân lính của mình bị tàn sát, chịu đả kích khi con cái bị triều đình giữ làm con tin ở Kinh thành mà ôm hậm hực, bất mãn, sa sút chán nản tới tận lúc qua đời. Những ngày tháng đó chắc hẳn không khí trong phủ An Sinh vương chẳng hề nhẹ nhàng, cũng chẳng dễ sống, nhưng người vợ tào khang Trần Thị Nguyệt vẫn một lòng một dạ ở bên ông chăm sóc hầu hạ, đồng hành hỗ trợ ông gánh vác trách nhiệm làm chủ vương phủ.

Sử chép, năm Mậu Thân (1248), Thuận Thiên Hoàng hậu qua đời khi mới 33 tuổi. Ba năm sau, tháng giêng năm 1251, xảy ra sự việc Trần Quốc Tuấn - người con trai tài năng, niềm tự hào của ông bà lại đem lòng yêu Thiên Thành trưởng công chúa (được nhận định là con gái út của Thái Tổ Trần Thừa, tức em cùng cha khác mẹ của Trần Liễu) rồi hồ đồ làm ra sự việc tày đình đang đêm lẻn vào khuê phòng công chúa cướp dâu ngay trong phủ Nhân Đạo vương (bố chồng tương lai của công chúa). Lần ấy nếu không nhờ Thuỵ Bà công chúa cầu cứu vua Trần Thái Tông kịp thời giải vây và đứng ra dàn xếp thì rất có thể Quốc Tuấn mất mạng ở phủ Nhân Đạo vương (thời đó Luật pháp cho phép người chồng được tự quyền giết chết tên gian phu, kẻ ngoại tình khi bắt tại trận). Thu xếp xong sự việc gây ra nỗi hổ thẹn này thì tiền đồ của gia đình An Sinh vương càng sa sút, những đứa con của ông bà sau này đã rất chật vật, nỗ lực để chứng minh tài năng của mình, để có được lòng tin và sự trọng dụng của đế vương. Tới tháng 4 năm đó, An Sinh vương Trần Liễu qua đời ở  tuổi 41, được truy tặng thuỵ hiệu là Khâm Minh Đại vương. Một số tài liệu cho rằng sau khi mãn tang chồng thì An Sinh vương phi đã xuất gia với pháp hiệu Diệu Hương. Tuy rằng cuộc đời Trần Liễu nhiều sóng gió, lắm thăng trầm mà đa phần là điều bất như ý, từng mất chính thất, mất con trai, mất quyền lực, mất tiền đồ nhưng có thể nói ông ấy đã có được một hồng nhan tri kỷ, một người vợ tào khang ở bên ông trọn nghĩa phu thê, một đời son sắt.

4.        THIỆN ĐẠO QUỐC MẪU, PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

Người viết chưa tìm được nguồn tư liệu về thời điểm Trần Thị Nguyệt được phong làm Thiện Đạo Quốc mẫu, cũng không thấy tài liệu nào chép về năm mất của bà. Song cá nhân mình đồ rằng, với tình hình lúc đó thì có lẽ phải sau này, khi các con của bà thể hiện được tài năng, chấn hưng vị thế gia tộc, khi Trần Quốc Tuấn lập đại công trong các lần kháng chiến chống Nguyên Mông và được phong tước Tiết chế Quốc công Hưng Đạo Đại vương thì bà được truy phong là Thiện Đạo Quốc mẫu.

Cuộc đời của Trần Thị Nguyệt cũng thăng trầm sóng gió cùng với biến động cuộc đời chồng bà, lên xuống theo bước chân công danh sự nghiệp của các con bà. Như mọi người phụ nữ Việt, bà mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp kế thừa bao đời của người vợ, người mẹ dân tộc Việt: chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh, đầy lòng bao dung, một lòng một dạ yêu chồng thương con, vì chồng vì con mà gánh gồng đảm đương vượt mọi khổ ải. Cứ nhìn vào những người con nổi danh của bà về sau: một thiền sự đạo hạnh là thầy của Phật hoàng - Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung, một nhà quân sự thiên tài được hậu thế suy tôn Đức Thánh Trần- Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, một mẫu nghi thiên hạ hiền đức sinh ra Phật hoàng- Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều, ta có thể thấy họ đã được thai nghén, nuôi dưỡng, chăm nom và kế thừa những phẩm chất tốt đẹp từ một người mẹ đức độ, thiện lương như thế nào. "Phúc đức tại mẫu", người mẹ hiền để lại phúc phần cho con cháu. Thiện Đạo Quốc mẫu đã sống một cuộc đời thật giống như tên huý Trần Thị Nguyệt của bà, bà chính là vầng trăng sáng giữa màn đêm, mang sự dịu dàng vỗ về an ủi cho chồng, mang ánh sáng trong trẻo thuần khiết, không chói loà mà kiên định soi tỏ cả khi bầu trời quang đãng hay lúc mây mù che phủ để nuôi dưỡng thân tâm, trao truyền đức hạnh cho con cháu, cho đời sau kế thừa.

Đọc thêm:

Lý-Trần Nữ Đế Lý Chiêu Hoàng Thiện Đạo Quốc mẫu
Còn lại: 5