Khâm Minh Đại vương Trần Liễu là trưởng tử của Thái Tổ Trần Thừa, con rể cả của vua Lý Huệ Tông, là huynh trưởng của vua Thái Tông Trần Cảnh và cũng là vị hôn phu đầu tiên của Thuận Thiên hoàng hậu Lý Oánh. Ông là phụ thân của Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung, Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu (hoàng hậu của vua Trần Thánh Tông, mẹ của vua Trần Nhân Tông) và cũng là cha ruột của Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang (người được vua Trần Thái Tông nhận là Hoàng trưởng tử). Là người đứng đầu nhánh trưởng của họ Trần với thân thế hiển hách nhưng định mệnh lại chẳng ban cho Trần Liễu một lá bài đẹp.

Trần Liễu sinh năm 1211, ở thời điểm này người cô ruột Trần Thị Dung đã trở thành Nguyên phi của vua Lý Huệ Tông, Trần gia dưới sự lãnh đạo của người chú Trần Tự Khánh đang là thế lực quân sự ngày càng lớn mạnh trên chính trường. Sử sách không ghi chép rõ nhưng khả năng cao Trần Tự Khánh là đích tử của Trần Lý, nên mặc dù Trần Thừa cha của Trần Liễu là con cả nhưng vẫn phải đứng sau người chú này. Trần Liễu lớn lên trong chiến loạn, tuổi thơ của ông là năm tháng chứng kiến họ Trần trải bao thăng trầm, chật vật tạo dựng cơ đồ giữa cuộc tranh hùng thời loạn, khi vinh hiển, lúc thất thế, người đứng đầu Trần Tự Khánh khi được coi là công thần lúc bị gọi là kẻ phản trắc. Cho tới năm 1216, trước sự tàn nhẫn của Đàm Thái hậu muốn ép chết Trần Thị Dung và đứa con trong bụng, vua Lý Huệ Tông đã đưa vợ chạy trốn khỏi hoàng cung, lẻn đến chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh ở bãi Cửu Liên, lựa chọn dựa vào họ Trần. Tháng chạp cùng năm đó, Lý Huệ Tông chính thức sách lập Thuận Trinh Phu nhân Trần thị làm Hoàng hậu và phong tước cho anh em họ Trần nắm toàn bộ quyền bính trong triều. Lúc này Trần Tự Khánh được phong làm Thái uý, con trưởng của Tự Khánh là Trần Hải được phong tước Hiển Đạo vương, Trần Thừa được phong tước Liệt hầu làm Nội thi phán Thủ và Trần Liễu được tước Quan nội hầu.
Sau khi có được chính danh “phụng mệnh thiên tử”, Trần Tự Khánh và họ Trần tích cực đánh bắc dẹp đông, diệt trừ các thế lực cát cứ chống triều đình. Tháng 12 năm 1223, Trần Tự Khánh đột ngột qua đời, quyền bính trong triều được giao cho người anh trai Trần Thừa kế tục chức vị Thái uý phụ chính. Đây cũng là bước ngoặt lớn trong cuộc đời Trần Liễu. Bằng sự khôn khéo và bản lĩnh chính trị của mình, Trần Thừa đã nắn dòng chỉnh hướng đưa vị trí trưởng tộc về lại nhánh con cả. Có nguồn sử liệu ghi rằng vào tháng 11 năm 1222, vua Lý Huệ Tông cùng Đàm thái hậu ngự ở điện Thiên An, con của Trần Tự Khánh là Hiển Đạo vương Trần Hải dâng nạp lễ vật cầu hôn Thuận Thiên công chúa. Thế nhưng sau khi Trần Tự Khánh qua đời, người được ban hôn với Thuận Thiên là Trần Liễu. Không rõ cuộc hôn nhân này diễn ra vào năm nào, chỉ biết rằng trước khi lấy Thuận Thiên thì Trần Liễu đã có nguyên phối là Trần Thị Nguyệt (tức Thiện Đạo quốc mẫu), nhưng vì là công chúa nên Thuận Thiên phải là chính thất, Thiện Đạo trở thành thiếp thất. Người viết mạo muội cho rằng nhờ kết hôn với trưởng công chúa mà Trần Liễu được thụ phong tước vương, vị hiệu là Phụng Càn Vương. “Càn” là quẻ đứng đầu Bát quái trong kinh dịch, đại diện cho Trời, cho vua, sự tôn quý và người đứng đầu, tên hiệu Phụng Càn Vương cho thấy vị thế cao của Trần Liễu và rất có thể Trần Liễu là người đầu tiên Trần gia lựa chọn cho vai trò khai mở triều đại. Điều này là hợp tình hợp lý, khi đó Trần Liễu là con trưởng, đã ở tuổi thành niên, từng tham gia chính sự cùng cha chú và gia tộc, lại là con rể trưởng của Hoàng đế đương triều.
Năm 1224, vua Lý Huệ Tông bệnh càng nặng, đến tháng 10, dưới sức ép của Trần Thủ Độ và họ Trần, vua bị buộc phải nhường ngôi rồi làm Thái thượng hoàng và đi tu ở chùa Bát Tháp, lấy pháp danh là Huệ Quang Đại sư. Thế nhưng trái với ý đồ của họ Trần, vua Huệ Tông đã “đảo lộn Càn Khôn” và chính thức nhường ngôi cho con gái út là công chúa Chiêu Thánh mới lên 7 tuổi, tức Lý Chiêu Hoàng, thay vì chọn con rể trưởng kế nghiệp. Ngay lập tức họ Trần thay đổi kế sách. không lâu sau, Trần Thủ Độ sắp đặt để Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh, con trai thứ của Trần Thừa, tiếp đó là màn Nữ đế nhường ngôi cho chồng. Trần Cảnh lên ngôi tức vua Trần Thái Tông. Vậy là họ Trần đã trở thành Hoàng tộc nhưng định mệnh đã chọn em trai của Trần Liễu là người ngồi lên ngai vàng đổi thay triều đại. Năm 1226, sau khi Trần Thủ Độ bức tử Thượng hoàng Lý Huệ Tông, cha vua là Trần Thừa được tôn làm Thượng hoàng, nhiếp chính cho con trai. Năm 1228, Trần Liễu được vua Thái Tông phong làm Thái uý khi chỉ mới 17 tuổi.
Sau khi Thượng hoàng Trần Thừa mất năm 1234, vua Trần Thái Tông có ý cất nhắc, dựa vào người anh trai, liền phong cho Trần Liễu tước Hiển Hoàng và vị trí Thái uý phụ chính bên cạnh người chú họ là Thái sư Trần Thủ Độ. Thế nhưng Trần Liễu và Trần Thủ Độ có vẻ không hoà hợp mà trở thành 2 thế lực đối đầu. Vào năm 1236 xảy ra sự biến cung Lệ Thiên, Trần Liễu khi ấy làm chức Tri sự của cung Thánh Từ bị kết án cưỡng gian cung nhân cũ Lý triều rồi bị giáng xuống làm Hoài vương, dần mất quyền lực trên chính trường. Từ đó, Thái sư Trần Thủ Độ trở thành trụ cột quyền uy nhất trong triều. Đó cũng là lúc cuộc đời của huynh đệ Trần Liễu, Trần Cảnh bắt đầu xoay vần trong bàn tay ông chú.
Năm 1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua đã lâu không có con, Trần Thủ Độ lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên công chúa, vợ của Trần Liễu đồng thời là chị gái của Chiêu Thánh, đang mang thai 3 tháng làm hoàng hậu để lấy đứa trẻ mà nhờ cậy về sau. Nhân lúc triều đình cử Trần Liễu đi xa, Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung đưa Thuận Thiên công chúa vào cung. Bất lực trước tình cảnh éo le này, vua Trần Thái Tông bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử xin tu theo thiền sư Đạo Viên. Trần Liễu trở về nhận hung tin, ôm hận nỗi nhục bị cướp vợ cướp con. Nhân lúc ngai vàng bỏ trống, Trần Thủ Độ rời kinh đi đón vua, Trần Liễu liền họp quân nổi loạn ở sông Cái. Không ai rõ tâm tư Trần Liễu lúc đó liệu chỉ đơn thuần là bất bình mà làm phản, hay ở trong đó còn có cả tham vọng nắn lại dòng trưởng thứ giống như cha mình từng làm được. Người viết đồ rằng có thể lắm, đối với họ Trần thì nếu Trần Liễu thành công cũng không hại gì, Trần Liễu hay Trần Cảnh làm vua, Thuận Thiên hay Chiêu Thánh làm hậu thì quyền lợi của họ Trần hay tính chính danh “con rể nối ngôi vua tiền triều” đều không thay đổi. Khi đó, Thuận Thiên được chọn làm Hoàng hậu, phu thê họ đã có đích tử Trần Doãn, lại ở vai chị vai anh của Chiêu Thánh, Trần Cảnh, vậy thì phu quân của nàng là Trần Liễu trở thành Hoàng đế cũng thấu tình đạt lý lắm chứ. Thế nhưng người Trần Thủ Độ chọn làm hoàng hậu là Thuận Thiên, còn quân vương ông ta một lòng phó tá lại là Trần Cảnh. Với bản lĩnh gian hùng và cá tính bất chấp luân thường miễn đạt mục đích của mình, Trần Thủ Độ nhanh chóng rước được vua Thái Tông trở về và thẳng tay tiêu diệt đội quân làm phản. Nổi loạn được 2 tuần, Trần Liễu biết mình thất thế, phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Thái Tông xin tha tội. Khi ấy Trần Thủ Độ biết được, cầm gươm đến định giết Trần Liễu nhưng Trần Cảnh lấy thân mình che cho anh và can ngăn, nhờ đó Trần Liễu mới thoát chết.
Vua Thái Tông tha tội cho Trần Liễu nhưng toàn bộ quân lính theo ông nổi loạn đều bị giết, Trần Liễu mất sạch đội quân của mình. Để an ủi và bù đắp, Trần Thái Tông lấy các đất An Phụ, An Dưỡng, An Sinh, An Hưng và An Bang cho ông làm ấp thang mộc và sửa phong hiệu là An Sinh vương. “An Sinh vương” có lẽ đã hàm ý nhắc nhở Trần Liễu rằng an phận thì được sống. Các sử gia cho rằng, mặc dù thua cuộc và tự xin hàng lại có Linh Từ quốc mẫu nhiều lần làm cầu nối hoà giải ân oán giữa hai nhánh, song Trần Liễu vẫn rất hậm hực và bất mãn với em trai mình, đến tận khi chết vẫn giữ mối thù này mà không buông bỏ được. Khi nghe thầy xem tướng nói con trai thứ của ông là Trần Quốc Tuấn có tướng đại quý, Trần Liễu đã dồn rất nhiều tâm huyết tìm người đào tạo Trần Quốc Tuấn thật giỏi giang hòng mai này thay cha rửa mối hận năm nào. Về chuyện này hậu thế khó lòng phân định, chỉ biết rằng từ đó cái tên Trần Liễu không còn xuất hiện trên chính trường, ông thật sự phải an phận ngậm ngùi làm vương gia không quyền lực cho tới cuối đời.
Sử chép, năm Mậu Thân (1248), Thuận Thiên Hoàng hậu qua đời khi mới 33 tuổi. 3 năm sau đó, vào năm 1251, tháng 4 âm lịch, An Sinh vương Trần Liễu qua đời ở tuổi 41, sau được truy tặng thuỵ hiệu là Khâm Minh Đại vương. Có người cho rằng Trần Liễu thọ ngắn là bởi ôm bất mãn tích tụ cả đời. Có người nghĩ ông buồn bực thất vọng sau sự việc người con trai là niềm tự hào của ông, Trần Quốc Tuấn lại đem lòng yêu Thiên Thành trưởng công chúa (được nhận định là con gái út của Thái Tổ Trần Thừa, tức em gái cùng cha khác mẹ của Trần Liễu) rồi hồ đồ làm ra sự việc tày đình cướp dâu ngay trong phủ Nhân Đạo vương (bố chồng tương lai của công chúa). Lần đó nếu không nhờ Thuỵ Bà công chúa cầu cứu vua Trần Thái Tông kịp thời giải vây và đứng ra dàn xếp thì sau này chẳng có Hưng Đạo Đại vương. Nỗi khổ tâm thật sự của Trần Liễu là gì, có lẽ chỉ mình ông biết. Vậy là 2 người con trưởng trong bi kịch 4 người một nhà đã rời xa dương thế ở còn tuổi đời còn trẻ, trước khi cuộc chiến Đại Việt chống quân Nguyên Mông diễn ra. Có lẽ là họ đã hoàn tất vai trò lịch sử của mình trong thời đại Đông A. Biết đâu ở một nơi nào đó, ở một thế giới khác, Thuận Thiên và Trần Liễu lại có cơ duyên đoàn tụ cùng nhau sau bể dâu một đời.
Tuy cuộc đời nhiều sóng gió, lắm thăng trầm mà đa phần là điều bất như ý, song Khâm Minh Đại vương Trần Liễu hoàn toàn có thể tự hào về hậu duệ của mình. Con trai, con gái, cháu trai, cháu gái của ông sau này đều trở thành Đại vương, Hoàng hậu, Vương phi, thiền sư được hậu thế ca tụng, ghi nhớ công ơn đời đời.
Đọc thêm: