NỮ ĐẾ, CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 4- Trần Thị Dung: Thuận Trinh Hoàng hậu, Linh Từ Quốc mẫu

Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên

Nữ nhân hiếm hoi được sử sách ghi nhận có vai trò là “khai quốc công thần” cho một triều đại huy hoàng trong thời đại phong kiến Việt Nam chính là Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung, người từng ở ngôi Thái hậu triều Lý, mẹ của Nữ đế Lý Chiêu Hoàng. Cùng với Thái tổ Trần Thừa và thái sư Trần Thủ Độ, bà đóng vai trò chủ chốt trong cuộc chuyển giao quyền lực giữa hai triều đại thông qua sự kiện Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Thái Tông Trần Cảnh. Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung cũng là người mở màn cho chuỗi drama và truyền thống kết hôn nội tộc của triều Trần khi hai người vốn là chị em họ con chú con bác lại kết hôn vào năm 1226 dưới thời Trần Thái Tông.

4. Tran Thi Dung.jpg

Trần Thị Dung xuất thân là con gái nhà chài lưới ở Hải Ấp, Thái Bình. Sử chép bà là con gái thứ hai của Trần Lý (nghĩa là trên bà còn có một chị gái) và là em gái của Trần Thừa và Trần Tự Khánh. Theo vai vế bà là cô ruột của Thái Tông Trần Cảnh và An Sinh vương Trần Liễu, sau đó trở thành mẹ vợ của cả hai người.

Chính sử không đề cập tới nhưng giai thoại dân gian có kể rằng thời thiếu nữ, Trần Thị Dung từng yêu thương một người đàn ông trước khi gặp Lý Huệ Tông, đó chính là Phùng Tá Chu là người bạn thân thiết của Trần Tự Khánh, anh trai bà. Phùng Tá Chu sau này trở thành công thần khai quốc triều Trần và cũng là một trong số hiếm hoi những người không mang họ Trần nhưng được phong tước đại vương, tức Hưng Nhân đại vương. Dù chỉ là thông tin dã sử nhưng xem xét vai trò của Phùng Tá Chu trong công cuộc chuyển giao triều đại Lý- Trần và công lao dốc sức phò tá Trần Thái Tông, có thể thấy mối giao tình giữa Hưng Nhân đại vương với họ Trần rất sâu đậm.

Cuộc đời của Trần Thị Dung có lẽ sẽ bình lặng như bao nữ thường dân khác nếu như không có ngày gặp gỡ Lý Hạo Sảm. Năm 1209, xảy ra loạn Quách Bốc, Thái tử Sảm cùng mẹ và em gái chạy loạn về vùng Hải Ấp, Thái Bình được hào trưởng Trần Lý và em vợ là Tô Trung Từ phò tá. Tại đây, thái tử Sảm gặp gỡ và cảm mến Trần Thị Dung nên biết ý, cha bà là Trần Lý đã gả bà cho Thái tử. Trong cuộc hôn nhân này, thái tử được nữ nhân mình yêu, lôi kéo thêm được thế lực cho mình, Trần Lý và Tô Trung Từ thì được chính danh phò tá nhà Lý để tập hợp, phát triển lực lượng quân sự với lời hứa hẹn ban chức tước từ thái tử. Chỉ có Trần Thị Dung, nữ nhân sắc nước hương trời ở tuổi 15 đã trở thành quân cờ trong tay họ Trần để bước vào vũ đài chính trị, tranh hùng và đoạt vị.

Trở thành vợ Thái tử Sảm là khởi đầu cho chuỗi ngày gian truân phong ba bão táp trong cuộc đời Trần Thị Dung. Họ Trần tham gia vào cuộc nội chiến dẹp loạn Quách Bốc cũng phải chịu không ít thiệt hại, cha bà là Trần Lý thiệt mạng trong cuộc giao tranh, quyền nắm quân đội họ Trần rơi vào tay người cậu Tô Trung Từ, người anh Trần Tự Khánh cũng phải chật vật để lấy lại quyền lực về tay mình. Vốn không đồng ý với việc Thái tử lấy con gái thường dân làm vợ, An Toàn Đàm hoàng hậu nhất quyết không cho Trần Thị Dung theo về cung. Phải tới khi Lý Cao Tông mất, thái tử Sảm nối ngôi vua mới sai người đón Trần Thị Dung nhập cung phong làm Nguyên phi. Năm 1211 chiến loạn tiếp tục xảy ra giữa các thế lực tranh quyền. Đàm Thái hậu không ưa họ Trần, ghét Trần Tự Khánh nên chẳng để cô con dâu Trần thị được yên ổn trong cung, Trần Nguyên phi bị giáng làm Ngự nữ (hàng thấp nhất trong phi tần). Cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa các họ Trần, Đoàn, Nguyễn tới tận 1215 vẫn chưa có hồi kết. Trong chừng đó năm, Trần Thị Dung luôn bên cạnh vua Lý Huệ Tông khi ở cung cấm, lúc bôn ba chạy loạn. Tới đầu năm 1216 Lý Huệ Tông sắc phong Ngự nữ thành Thuận Trinh phu nhân, lúc này bà đã mang thai khoảng 3 tháng. Song vì việc trước đó khi không đón được Lý Huệ Tông thì Trần Tự Khánh lập luôn vua khác rồi đốt phá hoàng cung, càng khiến Đàm thái hậu ghét bỏ, giày vò Trần thị kể cả khi bà đang mang thai Hoàng tự. “Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc nên thường chỉ Trần thị mà nói là bè đảng của giặc, bảo nhà vua phải đuổi bỏ đi. Sau đó, bà Thái hậu lại sai người nói với Trần thị phải tự sát, nhà vua biết bèn ngăn lại. Lại khi Thái hậu cho người lén bỏ thuốc độc vào món ăn uống của Trần thị, nhà vua liền biết ý của mẹ mình, vì vậy mỗi bữa ăn ông thường chia cho Trần thị một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Đủ mọi cách thất bại khiến Đàm Thái hậu không nhịn nữa, bà trực tiếp sai người đem thuốc độc bắt Trần thị phải uống, nhà vua phải can ngăn mãi mới thoát được.” Trước sự tàn độc của Thái hậu, vào tháng 5 (âm lịch) năm 1216, vì sinh mệnh của mẹ con Trần thị, Lý Huệ Tông đã đưa vợ chạy trốn khỏi hoàng cung, lẻn đến chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh ở bãi Cửu Liên. Thuận Thiên công chúa đã ra đời trong hoàn cảnh đẻ rơi trên đường như vậy. Từ đấy, Huệ Tông lại dựa vào Trần Tự Khánh và họ Trần. Tháng chạp, mùa đông cùng năm đó, Lý Huệ Tông chính thức sách lập Thuận Trinh Phu nhân Trần thị làm Hoàng hậu và phong tước cho anh em họ Trần nắm toàn bộ quyền bính trong triều. Có thể thấy, với Hoàng tộc Trần Thị Dung như một con tin họ Trần, với Trần Tự Khánh và tập đoàn họ Trần thì Hoàng hậu nắm giữ trái tim đế vương là quân cờ trong tay, với Đàm thái hậu Trần thị là cái gai trong mắt, còn với Lý Huệ Tông Trần Thị Dung là người vợ ngài yêu thương đồng thời là nỗi khổ tâm, khó xử. Bà hoàn toàn không có quyền lựa chọn, thậm chí chẳng thể biết bản thân mình sống chết thế nào giữa mớ bòng bong hỗn loạn thời đó.

Chính vào thời điểm Lý Huệ Tông chọn nghiêng về Trần Tự Khánh với mong muốn bảo toàn tính mạng cho vợ con thì cờ đã về tay họ Trần. Trần Thị Dung độc sủng hậu cung dù chỉ sinh được hai con gái, sử sách ghi nhận Thuận Thiên công chúa và Chiêu Thánh công chúa cũng là hai người con duy nhất của vua Lý Huệ Tông. Anh em họ Trần thay phiên nhau nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong triều. Có lẽ đó là lúc nhà vua đã bỏ ý định loại trừ họ Trần và Thái hậu cũng như họ Đàm không còn chi phối được cục diện. Nhà vua trúng phong (hay là mắc tâm bệnh) đau ốm liên miên rồi “phát điên”, việc triều chính đều do họ Trần quyết định. Những việc tiếp theo xảy đến thì ai cũng đã biết: Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng để xuất gia, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Thái Tông Trần Cảnh, Lý Huệ Tông tự vẫn ở chùa Chân Giáo, Trần Thừa trở thành Thái thượng hoàng mang theo gia quyến trở thành chủ nhân mới của Hoàng cung, Trần Thị Dung bị giáng xuống làm Thiên Cực công chúa rồi gả cho Trần Thủ Độ.

Dựa trên diễn biến về sau, một số sử gia phong kiến cho rằng Hoàng hậu Trần Thị Dung đã tư thông với Trần Thủ Độ từ lâu và tham gia vào mưu đồ trong các sự việc đó. Song cá nhân mình cho rằng bà ấy không có khả năng can thiệp nhiều đến thế. Chỉ là đứng trước các lựa chọn, bà ấy đã chọn làm theo sắp đặt của Trần Thừa (thủ lĩnh họ Trần sau khi Trần Tự Khánh mất), Trần Thủ Độ (võ tướng) với tham mưu của Phùng Tá Chu (văn thần). Về việc “tư thông” mà sử gia nghi ngờ theo mình là không đủ căn cứ, bởi Trần Thị Dung có hai người con gái, đặt vào vai trò là đương kim hoàng hậu rồi đương kim thái hậu và là mẹ của hai cô con gái, chắc hẳn bà ấy sẽ không muốn mình trở thành “hình ảnh người đàn bà lăng loàn, thất tiết” trong mắt con gái mình. Với Lý Huệ Tông, bà ấy có thể không có tình yêu kiểu “mối tình thiếu nữ”, nhưng cùng nhau trải qua sinh tử, có với nhau hai mụn con, mình tin rằng bà ấy dành cho Lý Huệ Tông tình yêu nặng nghĩa vợ chồng, ân tình ghi khắc. Cái chết của Lý Huệ Tông mình tin là Trần Thị Dung cũng chỉ biết khi sự đã rồi, bởi ngay sau cái chết của Thượng hoàng nhà Lý thì Thượng hoàng họ Trần nhập cung giúp đỡ cho nhà vua còn nhỏ và bà ấy buộc phải rời khỏi Hoàng cung. Còn về lý do Trần Thị Dung đồng ý tái hôn với người em họ Trần Thủ Độ, thì điều ai cũng thừa nhận là Trần Thủ Độ thật lòng yêu bà (nhiều giai thoại kể lại bà là mối tình duy nhất của ông). Còn một điều nữa mình thấy đó là lựa chọn tốt nhất mà bà ấy có thể chọn để đường đường chính chính ở lại kinh thành và tiếp tục có ảnh hưởng tới Hậu cung và Hoàng tộc. Có thể, việc trở thành vợ của Thái sư quyền hành lớn nhất trong triều sẽ giúp bà ấy dễ dàng để mắt tới cô con gái nhỏ đang là người họ Lý duy nhất trong Hoàng cung. Đó chỉ là suy đoán cá nhân, nhưng cũng có thể lắm chứ.

Sau khi Thái thượng hoàng hậu Lê thị rồi Thượng hoàng Trần Thừa lần lượt qua đời khi vua Trần Thái Tông mới 16 tuổi, Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu Trần Thị Dung trở thành hai người có quyền lực lớn nhất (át vua) cả trên triều đình lẫn trong Hoàng tộc. Rất nhiều sự kiện xảy ra sau đó được cho là dưới bàn tay sắp đặt của hai người, tốt có xấu có, khen có chê có, tàn nhẫn có, huy hoàng có. Ở vai trò Quốc mẫu, Trần Thị Dung có can thiệp phế lập, có hoà giải anh em, có nhẫn tâm ép uổng con gái ruột, có hết lòng chăm sóc, bảo vệ cho hậu duệ họ Trần. Về sau bà có sinh cho Trần Thủ Độ một người con trai là Trần Phó Duyệt, cũng chính là cha của danh tướng Trần Khánh Dư oai phong lẫm liệt một thời.

Năm 1258, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, Linh Từ quốc mẫu đã lập công lao rất lớn giúp nhà vua bảo vệ các hoàng tử, hoàng tôn cùng gia quyến của quý tộc nhà Trần tại khu vực căn cứ Hoàng Giang và chăm lo công tác hậu cần tiếp tế cho tiền tuyến đánh giặc. Năm 1259 một năm sau ngày toàn thắng, bà qua đời dưới năm đầu trị vì của cháu ngoại - Trần Thánh Tông Trần Hoảng.

Có thể thấy mỗi hành động của Trần Thị Dung, mỗi quyết định bà lựa chọn, có chuyện là bất khả kháng, có chuyện là chủ ý của bà, có điều có thể hiểu, có điều không thể cảm thông, có việc khiến người ta chê trách muôn thưở, có việc khiến đời đời ghi nhớ công ơn, song có lẽ tất thảy đều xuất phát từ mong muốn bảo toàn tính mạng cho người thân, bảo vệ cơ nghiệp thưở sơ khai của nhà Trần. Cuộc đời bà và cả những gì bà đã làm thật giống như thời khắc chạng vạng sau đêm tàn mở ra rạng đông tới buổi bình minh huy hoàng của triều đại Đông A Đại Việt.

Đọc thêm:

Còn lại: 5