NỮ ĐẾ, CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 3- Huệ Tông Lý Hạo Sảm: Người cha lực bất tòng tâm

Ảnh đại diện
Phượng Tía Cộng tác viên

Lý Hạo Sảm là đích trưởng tử của Vua Lý Cao Tông, mẹ là An Toàn hoàng hậu Đàm thị, sinh vào tháng 7 năm Giáp Dần (1194) tại kinh đô Thăng Long, Đại Việt. Năm Mậu Thìn (1208), ông được vua cha lập làm Thái tử khi 15 tuổi. Tháng 10 năm 1210 khi vua Lý Cao Tông mất, Thái tử nối ngôi đặt niên hiệu Kiến Gia. Ông là vị vua cuối cùng trong Lý Bát Đế và cũng là ông vua đầu tiên nhường ngôi cho con gái (tức Lý Chiêu Hoàng) để làm Thái Thượng hoàng, ông vua đầu tiên xuất gia đi tu với pháp danh Huệ Quang đại sư. Song những “lần đầu tiên đó” đều do họ Trần ép buộc, để rồi sau đó ông cũng là vị vua đầu tiên bị bức tử năm 1226, hưởng dương 33 tuổi, miếu hiệu Lý Huệ Tông. Sử gia đời sau nhận định Huệ Tông Lý Hạo Sảm là vị vua có số phận bi thảm nhất thời đại phong kiến, cuộc đời ông là chuỗi ngày bất đắc chí từ thưở thiếu thời tới ngày rời dương thế.

3. Ly Hue Tong.jpg

Thừa kế cơ đồ đã nghiêng ngả từ vua cha Lý Cao Tông

Lý Huệ Tông lớn lên trong buổi suy tàn của triều đại nhà Lý, mà người tạo ra thời tàn đó lại chính là cha ông tức vua Lý Cao Tông. Sử chép khi còn nhỏ, Cao Tông là hoàng tử ngoan lành nên dù là con thứ nhỏ tuổi nhưng được vua cha Lý Anh Tông phong làm Hoàng thái tử sau khi truất ngôi người con cả ăn chơi phóng đãng Lý Long Xưởng. Song khi lớn lên bắt đầu trực tiếp cầm quyền trị nước, Cao Tông lại “sinh ra ham mê săn bắn, chính sự pháp luật không rõ ràng, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch nên trộm cướp nổi lên khắp nơi”. Thượng bất chính hạ tắc loạn, dưới thời Cao Tông chính sự rối ren, giặc giã nổi loạn, gian thần xúc xiểm, trung lương bị hại, dân chúng cực khổ, bất bình oán hận, trộm cướp nổi lên, loạn lạc khắp chốn. Vừa được lập Thái tử năm trước thì năm sau (1209) mới 15 tuổi, Lý Hạo Sảm đã phải cùng mẹ và 2 em gái chạy loạn Quách Bốc tới Hải Ấp, Thái Bình (nhà ngoại Đàm thị) rồi được Trần Lý (hào trưởng vùng Hải Ấp) tôn phò làm Thắng vương (lúc này Quách Bốc đánh chiếm kinh thành đã lập hoàng tử Lý Thầm làm vua), trong khi đó vua Cao Tông chạy về Tam Nông, Phú Thọ nương nhờ thế lực họ Hà. Cũng tại đây ông đã cảm mến và lấy con gái của Trần Lý tức Trần Thị Dung làm vợ. Từ đó thế lực họ Trần nhờ có chính danh bắt đầu tham chính. Gia tài Cao Tông để lại cho Huệ Tông là ngôi quân chủ một đất nước loạn lạc giặc giã khắp nơi, quan lại không còn người tài, chẳng có lấy bề tôi trung thành, các thế lực cát cứ tranh giành, xâu xé quyền lực, vận nước suy vi không gì cứu vãn nổi.

Huynh đệ tương tàn vì ngai vàng dưới bàn tay mẫu hậu An Toàn Đàm Thái hậu

Mẹ của Lý Huệ Tông, An Toàn Đàm Thái hậu được xem là thái hậu tàn ác nhất sử Việt, đầy tham vọng quyền lực, dùng mọi thủ đoạn độc ác tàn nhẫn để trấn áp hậu cung, tranh giành vương vị. Sau khi hạ sinh thái tử và được sắc phong Hoàng hậu, bà bắt đầu đưa thế lực ngoại thích là em trai Đàm Dĩ Mông, một người không có học thức, bất tài, nhu nhược vào triều nắm hết chức vụ quan trọng. Khi được Tô Trung Từ và họ Trần phò tá rước về kính sư sau loạn Quách Bốc, năm 1210, Thái tử Sảm nối ngôi, bà được tôn làm Hoàng thái hậu. Sử chép bà là người cứng rắn, chuyên quyền, khi con trai 16 tuổi lên làm vua, bà đích thân cùng Huệ Tông nghe chính sự, trao quyền lực cao nhất cho Đàm Dĩ Mông cùng trông coi triều chính, mọi việc đều do Thái hậu quyết định. "Thái hậu là người chỉ nghĩ đến dòng họ và củng cố quyền lực nên không có chính sách gì đối với tình hình quốc gia mà chỉ gia tăng thế lực nhằm củng cố địa vị. Từ đó chính sự nhà Lý càng bất ổn."

Năm 1211, khi Tô Trung Từ chết, Đàm Thái hậu ngờ vực Trần Tự Khánh có mưu đồ phế lập ngôi vua (như Quách Bốc đã từng lập hoàng tử Lý Thầm làm vua), "bà bèn đem ba Hoàng tử; Nhân Quốc vương, Lục hoàng tử và Thất hoàng tử con của Cao Tông với các thị thiếp khác dìm đầu chết ở sau giếng trong cung. Rồi sai đem xác cả ba ngươi vứt ra ngoài thành. Quần thần đều sợ Thái hậu không ai dám can. Thế là ngôi vị của Huệ Tông được giữ vững mà không sợ bị phế lập". Song điều đó cũng có nghĩa rằng Lý Huệ Tông không còn một anh em ruột thịt nào để làm chỗ dựa về sau. Đồng thời hành vi tàn độc giết hại hoàng tự của Thái hậu có thể cũng là một cái “nhân” mà về sau Lý Huệ Tông không có con trai nối dõi (giống như sự việc Linh Nhân thái hậu Ỷ Lan từng tàn sát Thượng Dương thái hậu và hơn 70 cung nhân, rồi sau đó vua Lý Nhân Tông không thể có con trai, cuối cùng phải lập cháu nối ngôi tức vua Thần Tông Lý Dương Hoán).

Mắc kẹt trong cuộc chiến mẹ chồng nàng dâu

Lý Huệ Tông ở ngôi, về chính sự Đàm thái hậu quyết định mọi việc, về hậu cung một tay Thái hậu trấn áp. Vốn không ưa việc Thái tử lấy Trần Thị Dung, chỉ là con gái hào trưởng địa phương làm vợ, khi trở về triều sau loạn Quách Bốc bà không cho phép Trần Thị Dung theo về cung. Mãi tới khi Thái tử lên ngôi mới sai người đón Trần thị vào cung lập làm Nguyên phi, cũng là lúc bắt đầu những ngày sóng gió hậu cung trong cuộc chiến mẹ chồng nàng dâu. Thái hậu thù ghét con dâu, ngờ vực họ Trần phản trắc thường chỉ vào con dâu mà mắng nhiếc và tìm nhiều cách để giết hại Trần Thị Dung. Sử chép: "Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc nên thường chỉ Trần thị mà nói là bè đảng của giặc, bảo nhà vua phải đuổi bỏ đi. Sau đó, bà Thái hậu lại sai người nói với Trần thị phải tự sát, nhà vua biết bèn ngăn lại. Lại khi Thái hậu cho người lén bỏ thuốc độc vào món ăn uống của Trần thị, nhà vua liền biết ý của mẹ mình, vì vậy mỗi bữa ăn ông thường chia cho Trần thị một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Đủ mọi cách thất bại khiến Đàm Thái hậu không nhịn nữa, bà trực tiếp sai người đem thuốc độc bắt Trần thị phải uống, nhà vua phải can ngăn mãi mới thoát được." Trước sự hà khắc, tàn nhẫn của Thái hậu, vào tháng 5 (âm lịch) năm 1216, vì sinh mệnh của mẹ con Trần thị, Lý Huệ Tông đã đưa vợ chạy trốn khỏi hoàng cung, lẻn đến chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh ở bãi Cửu Liên. Trưởng nữ của Huệ Tông là Thuận Thiên công chúa đã ra đời trong hoàn cảnh đẻ rơi trên đường như vậy. Từ đấy, Huệ Tông lại dựa vào Trần Tự Khánh và họ Trần. Tháng chạp, mùa đông cùng năm đó, Lý Huệ Tông chính thức sách lập Thuận Trinh Phu nhân Trần thị làm Hoàng hậu và phong tước cho anh em họ Trần nắm toàn bộ quyền bính trong triều. Như vậy có thể thấy ở vị trí làm con và làm chồng, Lý Huệ Tông thực sự mắc kẹt giữa hai người phụ nữ đứng đầu hậu cung. Khi còn trẻ, hầu hết Huệ Tông nghe theo mẹ, đã vài lần thay chỗ dựa, lúc nghiêng sang thế lực họ này, ngả về thế lực họ kia, đã vài lần phong phi, giáng rồi lại lập vị cho Trần Thị Dung dưới tác động của Thái hậu. Song khi đứng trước an nguy cho tính mệnh của vợ con, để con mình thoát khỏi bàn tay tàn nhẫn của bà nội, Lý Huệ Tông đã quyết định chọn dựa vào họ Trần dù rằng hẳn trong lòng Vua phần nào hiểu rõ quyết định đó sẽ mang đến hệ quả tất yếu là thế lực họ Trần ngày càng lớn mạnh trên chính trường.

Ông vua đơn độc trên chính trường

Ở ngôi thiên tử khi mới 16 tuổi, hẳn rằng Lý Huệ Tông cũng từng ấp ủ bao hoài bão lớn lao để vực lại cơ đồ họ Lý đang trên đà suy tàn dưới “bàn tay vàng” trong làng “báo thủ” của vua cha Lý Cao Tông. Nhìn lại cuộc đời ông với những lần xoay chuyển chỗ dựa giữa các thế lực đối trọng cho thấy ông vốn không phải là ông vua chỉ thích hưởng nhàn không màng thế sự. Mình rất đồng tình với nhận định này: “Ông loay hoay tìm trung thần nhưng rốt cục ngoảnh đi ngoảnh lại, các sứ quân không ai trung thành với nhà Lý mà đều có toan tính riêng. Lý Huệ Tông không mặn mà họ Trần nhưng lại thực lòng yêu Trần Thị Dung và điều đó được họ Trần khai thác triệt để với vai trò ngoại thích và có vị thế thuận lợi để dẹp yên thiên hạ. Nói một cách khái quát, Lý Huệ Tông không đủ khả năng cứu vãn chính sự nhà Lý mà vua cha Lý Cao Tông đã làm hỏng.” Ở ngôi vua không có trung thần, không người thực lòng phò trợ, anh em thân thích chẳng còn ai, tông thất họ Lý không đủ lực, ngoại thích nhà mẹ thì bất tài, ngoại thích nhà vợ thì nhiều tay gian hùng (Trần Tự Khánh mặc dù phò Huệ Tông nhưng trước đó năm 1213 khi không đón được Huệ Tông đã lập một người con vua Lý Anh Tông là Huệ Văn vương làm vua mới, hiệu Nguyên vương rồi đốt phá toàn bộ kinh thành đưa vua mới về Lý Nhân, Hà Nam), Huệ Tông Lý Hạo Sảm quả thực là ông vua cô độc trên chính ngai vàng và hoang mang trước thời cuộc. Có lẽ những điều đó là lý do không nhỏ khiến ông trúng phong, đau yếu luôn rồi “mắc bệnh điên”, “tự xưng là thiên tướng” từ năm 1217 cho tới khi rời Hoàng cung xuất gia làm Huệ Quang đại sư. Liệu ông có thật sự “phát điên”, hay “giả điên” trước “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, có lẽ chỉ mình nhà vua biết.

Người cha lực bất tòng tâm…

Sau sự việc Huệ Tông nghiêng về họ Trần năm 1216, sử sách không còn ghi lại gì về hành động của Đàm thái hậu, có lẽ từ đó họ Trần đã hoàn toàn chiếm ưu thế, họ Đàm không còn quyền hành trên triều. Năm 1217, nhà vua phát điên, chính sự giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Không rõ cuộc chiến mẹ chồng nàng dâu thế nào, năm 1218 hoàng thứ nữ Chiêu Thánh công chúa chào đời, dù mong mỏi song Huệ Tông vẫn không thể có hoàng nam nối dõi. “Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, binh quyền lại rơi vào tay em họ Tự Khánh là Trần Thủ Độ và anh Tự Khánh là Trần Thừa được phong làm Phụ quốc thái úy. Năm 1224, bệnh vua càng nặng hơn. Vua đem chia cả nước làm 24 lộ, chia cho các công chúa. Đến tháng 10, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, ông chính thức nhường ngôi lại cho con gái là công chúa Chiêu Thánh mới lên 7 tuổi, tức là Lý Chiêu Hoàng. Huệ Tông lên làm Thái thượng hoàng và đi tu ở chùa Bát Tháp, lấy pháp danh là Huệ Quang Đại sư.

Vào thời khắc bị ép phải nhường ngôi cho một đứa trẻ, vua Lý Huệ Tông đã táo bạo truyền ngôi cho con gái thứ mới 7 tuổi của mình là Chiêu Thánh công chúa trở thành Nữ đế Lý Chiêu Hoàng. Phải chăng đó là cách cuối cùng nhà vua thể hiện sự phản kháng với mưu đồ của họ Trần khi họ Trần đã sớm sắp đặt để trưởng công chúa Thuận Thiên mới 8,9 tuổi đã làm vợ Trần Liễu, thành dâu họ Trần. Có lẽ, nhà vua nghĩ đằng nào cũng là một đứa trẻ ngồi lên ngai vàng vậy thì ngài chọn đứa trẻ mang họ Lý. Dù biết sẽ chẳng thể dài lâu nhưng chí ít vua cũng để lại giang sơn cho con gái mình.

Không lâu sau, Trần Thủ Độ sắp đặt để Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh, con trai thứ của Trần Thừa, và sau đó là màn Nữ đế nhường ngôi cho chồng, tức Trần Thái Tông. Nhà Lý mất về tay nhà Trần từ đó (1225). Lúc này Thượng hoàng đã xuất gia thoát tục, Huệ Quang đại sư có đoán trước rằng ngày này sẽ tới không? Hẳn là ngài đã biết. Nhà Lý mất ngôi, là hậu duệ họ Lý ngài có phẫn uất không? Chắc chắn là có. Vậy mà ngài cứ thế làm bạn với kinh kệ, không màng thế sự để mặc họ Trần tự tung tự tác, ngang nhiên đoạt vị soán ngôi sao? Nếu không kệ, thì ngài có thể làm gì? Nhà Trần là dòng họ của người vợ ngài từng yêu thương, bảo vệ, giờ cũng đang nắm trong tay cả hai đứa con gái yêu dấu của ngài, họ Trần đã nắm đằng chuôi còn ngài đang cầm đằng lưỡi. Phản kháng ư? Ngài lấy gì để phản kháng, khi ở ngôi thiên tử ngài còn chẳng làm được, giờ là một nhà sư thì ngài có thể làm gì? Có lẽ lý do duy nhất để Huệ Tông tu hành không phải là để khỏi bệnh hay mong cầu giải thoát mà là sinh mệnh của hai người con đặc biệt là Chiêu Thánh, đứa con gái mà ngài buộc phải đưa lên ngai vàng cũng chính là đẩy vào miệng cọp. Năm 1226 khi Trần Thủ Độ ép buộc, Huệ Quang đại sư đã tự tử sau vườn. Người ta có chép lại tình tiết trước khi chết Lý Huệ Tông còn khấn: “Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế” và liên hệ với sự việc Hồ Quý Ly bức tử vua Trần Thuận Tông cuổi thời Trần. Tuy nhiên cá nhân mình cho rằng đây là chi tiết đời sau thêm thắt cho tăng phần kịch tính. Bởi rằng thời điểm đó Thuận Thiên là chính thất của Trần Liễu, Chiêu Thánh là Hoàng hậu của Thái Tông Trần Cảnh thì con cháu họ Trần chẳng phải cũng có cả hậu duệ của hai con gái Lý Huệ Tông, là con cháu của chính ngài sao? Có người cha, người ông nào lại buông lời nguyền rủa con cháu mình cơ chứ?

Có thể thấy, chứng kiến bể dâu cuộc đời, tự mình trải qua sóng gió cung đình, loạn lạc khốc liệt, Lý Huệ Tông thật sự không thể làm gì khác ngoài việc lựa chọn hy sinh, nhận lấy phần thua thiệt chỉ với mong mỏi đổi lấy bình an cho hai con gái của mình. Lý Hạo Sảm là người con không có vua cha tốt song ngài thật sự là một người cha tốt. Lý Huệ Tông có thể là ông vua kém tài kém phước, bất lực với thời cuộc, nhu nhược trước quyền thần, yếu mềm trước tình thân và loay hoay, mắc kẹt trong cuộc chiến giữa mẹ và vợ, dù lực bất tòng tâm nhưng mình cho rằng ông ấy là người cha đã làm tất cả những gì có thể cho các con của mình.

Đọc thêm:

Còn lại: 5