ĐI BUÔN THỜI CHÚA NGUYỄN

Ảnh đại diện
Hồng Hải Tác giả mới

Người ta thường nhắc đến Hội An với vẻ yên bình, cổ kính, như một miền ký ức còn vẹn nguyên màu thời gian. Không mang dáng vẻ uy nghi quyền quý của Thăng Long, cũng chẳng mang sự hào nhoáng, rộn ràng như Sài Gòn, Hội An giữ cho mình một nét duyên riêng, trầm lặng mà cuốn hút, xưa cũ mà không thiếu đi sự trẻ trung, sinh động. Thế nhưng, ít ai nhớ rằng, đằng sau dáng vẻ ấy là một quá khứ huy hoàng của một thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất Đàng Trong, nơi thuyền buôn từ khắp năm châu từng tấp nập neo đậu, nơi những dòng chảy văn hóa không ngừng giao thoa trong bầu không khí mở cửa và thịnh vượng. Chính Hội An, trong thời Chúa Nguyễn, đã trở thành cánh cửa bước ra thế giới, bản lề cho sự hình thành và phát triển của thương nghiệp nước Việt trong thời kỳ đầu hội nhập.

Bối cảnh lịch sử

Theo sử sách nước ta ghi lại, sự ra đời của Đàng Ngoài - Đàng Trong gắn với quyết định ly khai của chúa Nguyễn Hoàng vào năm 1558, khi ông vào trấn nhậm vùng Thuận Hóa để tránh xung đột với quyền thần Trịnh Kiểm. Vùng đất này khi ấy là miền biên viễn hoang hóa, địa hình hẹp dài giữa núi và biển, ít gắn kết về địa lý, lại là nơi cư trú của nhiều nhóm cư dân đa dạng như người Chăm. Song song đó, Nho giáo chưa ăn sâu vào đời sống của người dân như Đàng Ngoài, tạo nên môi trường thuận lợi cho sự phát triển của văn hóa, đặc biệt là văn hóa thương nghiệp.

Ban đầu, họ Nguyễn yếu thế hơn hẳn so với họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Vì thế, chúa Nguyễn chủ động xây dựng một mô hình nhà nước vừa linh hoạt vừa thực dụng, kết hợp mở mang bờ cõi với phát triển kinh tế. Để tăng cường dân số và nguồn lực sản xuất, họ Nguyễn thực hiện chính sách di dân quy mô lớn từ Thanh - Nghệ - Tĩnh vào Nam, tạo nên một lớp cư dân năng động, gắn kết bằng quan hệ họ tộc và tinh thần khai phá. Miễn thuế ba năm, cho quyền sở hữu đất khai hoang… là những chính sách cấp tiến khiến Đàng Trong trở thành “miền đất hứa” của những người nghèo đói, lưu dân và tiểu nông miền Bắc.

Trong bối cảnh đó, thương mại không chỉ là phương tiện làm giàu mà còn là “nền tảng của sự sống còn” của chính quyền chúa Nguyễn. Sự thiếu hụt ngân khố, nhu cầu mua vũ khí, tàu chiến và thiết bị quân sự hiện đại để đối đầu với họ Trịnh đã thúc đẩy Đàng Trong mở rộng giao thương với thế giới. Hội An trở thành một thương cảng quốc tế nhộn nhịp bậc nhất Đông Nam Á, thu hút thương nhân Nhật Bản, Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh… Giao dịch bằng tiền kim loại nhập từ nước ngoài, buôn bán các mặt hàng quý như tơ lụa, trầm hương, vàng, và sau này là gạo từ đồng bằng sông Cửu Long, đã đem lại nguồn thu lớn cho nhà Nguyễn. Sự năng động kinh tế gắn chặt với chiến lược chính trị đó là buôn bán để tồn tại, để trang bị quân đội, và để kiểm soát một lãnh thổ rộng lớn đang ngày càng mở rộng về phía Nam.

Tuy nhiên, đến giữa thế kỷ XVIII, hệ thống hành chính quân sự cũ dần bộc lộ hạn chế. Mâu thuẫn xã hội gia tăng do lạm phát, thuế khóa nặng, chính sách áp bức với các dân tộc thiểu số và tình trạng mua quan bán tước lan rộng. Những bất ổn này đã góp phần dẫn đến phong trào Tây Sơn, đặt dấu chấm hết cho chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. Dù vậy, giai đoạn này đã đặt nền móng cho tiến trình Nam tiến và hình thành bản sắc văn hóa, kinh tế riêng biệt cho miền Nam Đại Việt.

Kẻ bán người mua nơi cửa biển Faifo.

hoi-an-3-10541420.webpNguồn: "Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792-1793)" của tác giả John Barraow, Nguyễn Thừa Hỷ dịch

Cristoforo Borri từng kinh ngạc ghi lại rằng, chỉ trên một dải bờ biển dài hơn trăm dặm mà đã có đến hơn sáu mươi bến đỗ riêng biệt, nhưng trung tâm của mọi sự nhộn nhịp ấy phải kể đến thương cảng lớn tại Quảng Nam - Hội An. Vào thế kỷ XVII, Hội An hiện lên như trái tim của dòng chảy mậu dịch Đông Nam Á, một cây cầu  nơi phương Đông gặp gỡ phương Tây. Những con tàu buôn từ Nhật Bản, Trung Hoa, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Anh Quốc... lần lượt cập bến sông Hoài, mang theo sản vật, ngôn ngữ và văn hóa bốn phương. 

Mùa hội chợ kéo dài suốt bốn tháng, đường phố Hội An rộn ràng bước chân thương nhân, tiếng rao chan hòa trong hương quế, trầm hương và vị mật ong ngọt lịm từ các gánh hàng rong. Trong các ngôi nhà lợp ngói âm dương cổ kính, tiếng đàm phán vang lên rộn rã qua đủ các thứ tiếng. Dưới bến, hàng hóa như lụa, ngà voi, kỳ nam, tổ yến... được trao đổi tấp nập, như một bản giao hưởng không dứt của giao thương và hội tụ văn hóa. Hội An, từ đó, trở thành một trong những thương cảng quốc tế phồn vinh và sầm uất bậc nhất châu Á đương thời.

Sự thịnh vượng ấy không đến một cách ngẫu nhiên, mà gắn liền với tầm nhìn sâu rộng của các chúa Nguyễn trong việc thúc đẩy ngoại thương như trụ cột sống còn của Đàng Trong. Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu, việc mở cửa đón thương nhân ngoại quốc được xem là một chính sách quốc gia. Số lượng tàu buôn nước ngoài cập cảng thậm chí được dùng như thước đo sự thịnh vượng của vương quốc. Người nước ngoài, đặc biệt là người Nhật, người Hoa, người Bồ và người Hà Lan, được chào đón nồng hậu và cấp đất lập bang buôn. Đàng Trong trở thành một xã hội cởi mở, nơi người dân và các phong tục, học thuyết tứ xứ được tiếp đón nồng hậu.

Hoạt động thương mại của Đàng Trong trải dài khắp khu vực từ Nhật Bản, Trung Hoa (Quảng Châu, Phúc Kiến, Ma Cao), Xiêm La, Lào, Campuchia cho đến các quốc gia châu Âu như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp, Anh. Những mặt hàng xuất khẩu nổi bật bao gồm tơ lụa, hàng đan lát, long não, trầm hương, kỳ nam, vàng, mật ong, song mây và đặc biệt là tổ yến, thứ sản vật quý giá mà chỉ vua chúa được phép độc quyền buôn bán và dùng để cống nạp cho Thiên triều. Ở chiều ngược lại, Đàng Trong nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng và kỹ nghệ như vải bông màu sặc sỡ, đồ thủy tinh, ngũ kim, lược, kim khâu, trang sức, vòng tay… Gạo, đặc biệt trong thế kỷ XVIII, cũng được nhập từ Campuchia và Xiêm để nuôi quân đội và kinh thành trong bối cảnh thiếu hụt lương thực.

Ảnh hưởng của ngoại thương lan tỏa sâu rộng tới đời sống xã hội. Đời sống nhân dân Đàng Trong phồn thịnh đến mức tiều phu, thợ thủ công cũng có thể mặc lụa. Do nam giới bị động viên quân sự nhiều, phụ nữ đã đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, thương mại và giao dịch. Bên cạnh đó, quá trình giao lưu, tiếp xúc với các dân tộc bản địa và cư dân Chăm đã dẫn đến sự tiếp nhận linh hoạt nhiều yếu tố văn hóa bản địa, tạo nên bản sắc văn hóa phương Nam mềm dẻo, khoan dung và cởi mở hơn so với mô hình văn hóa Đàng Ngoài.

Tứ phương giao hòa, nên hồn văn hóa 

Và hôm nay, dù những chiếc thuyền buôn đã thôi cập bến sông Hoài, cái hồn giao thoa ấy vẫn chưa bao giờ rời xa Hội An. Nó lặng lẽ sống trong từng viên gạch, mái ngói, trong cả tiếng rao buổi sớm và hơi thở nhịp nhàng của phố cổ lúc về khuya. Trên những con đường nhỏ lát gạch Bát Tràng, người ta vẫn thấy dáng dấp của một Hội An từng là ngã ba văn hóa. Đó là nơi người Việt dựng nhà, người Hoa mở tiệm, người Nhật dựng phố, người Tây dựng trường, truyền đạo. Ngôi nhà gỗ ba gian của người Việt khéo léo chồng lên mái ngói âm dương của người Hoa, trong khi chiếc lan can nhỏ bằng gỗ lại cong nhẹ như kiểu Nhật. Mọi thứ hòa vào nhau, chẳng phô trương, chẳng chiếm chỗ, mà quyện lại như một hơi thở rất riêng.

Người Hội An cũng vậy, từ lâu đã sống với tinh thần rộng mở. Họ học cách uống trà như người Á Đông, chào hỏi lễ phép kiểu người Nhật, nhưng cũng chẳng xa lạ gì với chiếc bánh mì kẹp thịt kiểu Pháp cho bữa sáng. Lối sống dung dị mà vẫn thanh lịch ấy là kết quả của nhiều thế hệ tiếp xúc và giao thoa với người tứ xứ. Họ giữ lại những gì hay, gạn lọc những gì hợp, từ đó hình thành nên một bản sắc mềm mại, linh hoạt mà rất đỗi tự nhiên.

Ngày nay, không khí cởi mở ấy vẫn hiện hữu trong cách người Hội An tiếp khách, mở cửa đón du khách năm châu, hay trong những lễ hội vừa truyền thống, vừa đa sắc màu hiện đại. Người ta có thể nghe tiếng chuông chùa hòa cùng tiếng thánh ca trong đêm Giáng Sinh, thấy quán trà Đạo đối diện một quán cà phê kiểu Pháp, hoặc cùng nhau nâng ly trong Tết Nguyên đán xen lẫn ánh sáng từ đèn lồng Nhật Bản. Những mảnh ghép văn hóa ấy vẫn hòa quyện, đắp nên linh hồn Hội An: một đô thị nhỏ, nhưng mang trái tim rộng lớn của một nền văn hóa giao thoa.

Còn lại: 5
1 Bình luận
Ảnh đại diện
Trần Ngô Du Tác giả mới
Trần Ngô Du Tác giả mới
"Một điểm nổi bật trong đời sống kinh tế là việc phổ cập sử dụng tiền tệ thay cho hiện vật. Đàng Trong trở thành vùng đất đầu tiên trong lịch sử Việt Nam áp dụng phổ biến tiền đồng" - bạn xem lại đoạn này nhé. Vì tiền đồng đã dùng phổ biến ở Đại Việt từ lâu rồi mà ^^
Xin chào bạn, Mình đã ghi nhận và chỉnh sửa bài rồi ạ. Mình xin cảm ơn bạn vì đã có góp ý giúp bài được hoàn thiện hơn.  –  Hồng Hải 1750406609000