Hồng Hải
2 bài viết
0 bình luận
Ảnh đại diện
Hồng Hải Tác giả mới
Hồng Hải Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>Người ta thường nhắc đến Hội An với vẻ yên bình, cổ kính, như một miền ký ức còn vẹn nguyên màu thời gian. Không mang dáng vẻ uy nghi quyền quý của Thăng Long, cũng chẳng mang sự hào nhoáng, rộn ràng như Sài Gòn, Hội An giữ cho mình một nét duyên riêng, trầm lặng mà cuốn hút, xưa cũ mà không thiếu đi sự trẻ trung, sinh động. Thế nhưng, ít ai nhớ rằng, đằng sau dáng vẻ ấy là một quá khứ huy hoàng của một thương cảng quốc tế sầm uất bậc nhất Đàng Trong, nơi thuyền buôn từ khắp năm châu từng tấp nập neo đậu, nơi những dòng chảy văn hóa không ngừng giao thoa trong bầu không khí mở cửa và thịnh vượng. Chính Hội An, trong thời Chúa Nguyễn, đã trở thành cánh cửa bước ra thế giới, bản lề cho sự hình thành và phát triển của thương nghiệp nước Việt trong thời kỳ đầu hội nhập.</i></p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1>Bối cảnh lịch sử</h1></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p> Theo sử sách nước ta ghi lại, sự ra đời của Đàng Ngoài - Đàng Trong gắn với quyết định ly khai của chúa Nguyễn Hoàng vào năm 1558, khi ông vào trấn nhậm vùng Thuận Hóa để tránh xung đột với quyền thần Trịnh Kiểm. Vùng đất này khi ấy là miền biên viễn hoang hóa, địa hình hẹp dài giữa núi và biển, ít gắn kết về địa lý, lại là nơi cư trú của nhiều nhóm cư dân đa dạng như người Chăm. Song song đó, Nho giáo chưa ăn sâu vào đời sống của người dân như Đàng Ngoài, tạo nên môi trường thuận lợi cho sự phát triển của văn hóa, đặc biệt là văn hóa thương nghiệp.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ban đầu, họ Nguyễn yếu thế hơn hẳn so với họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Vì thế, chúa Nguyễn chủ động xây dựng một mô hình nhà nước vừa linh hoạt vừa thực dụng, kết hợp mở mang bờ cõi với phát triển kinh tế. Để tăng cường dân số và nguồn lực sản xuất, họ Nguyễn thực hiện chính sách di dân quy mô lớn từ Thanh - Nghệ - Tĩnh vào Nam, tạo nên một lớp cư dân năng động, gắn kết bằng quan hệ họ tộc và tinh thần khai phá. Miễn thuế ba năm, cho quyền sở hữu đất khai hoang… là những chính sách cấp tiến khiến Đàng Trong trở thành “miền đất hứa” của những người nghèo đói, lưu dân và tiểu nông miền Bắc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong bối cảnh đó, thương mại không chỉ là phương tiện làm giàu mà còn là “nền tảng của sự sống còn” của chính quyền chúa Nguyễn. Sự thiếu hụt ngân khố, nhu cầu mua vũ khí, tàu chiến và thiết bị quân sự hiện đại để đối đầu với họ Trịnh đã thúc đẩy Đàng Trong mở rộng giao thương với thế giới. Hội An trở thành một thương cảng quốc tế nhộn nhịp bậc nhất Đông Nam Á, thu hút thương nhân Nhật Bản, Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh… Giao dịch bằng tiền kim loại nhập từ nước ngoài, buôn bán các mặt hàng quý như tơ lụa, trầm hương, vàng, và sau này là gạo từ đồng bằng sông Cửu Long, đã đem lại nguồn thu lớn cho nhà Nguyễn. Sự năng động kinh tế gắn chặt với chiến lược chính trị đó là buôn bán để tồn tại, để trang bị quân đội, và để kiểm soát một lãnh thổ rộng lớn đang ngày càng mở rộng về phía Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy nhiên, đến giữa thế kỷ XVIII, hệ thống hành chính quân sự cũ dần bộc lộ hạn chế. Mâu thuẫn xã hội gia tăng do lạm phát, thuế khóa nặng, chính sách áp bức với các dân tộc thiểu số và tình trạng mua quan bán tước lan rộng. Những bất ổn này đã góp phần dẫn đến phong trào Tây Sơn, đặt dấu chấm hết cho chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. Dù vậy, giai đoạn này đã đặt nền móng cho tiến trình Nam tiến và hình thành bản sắc văn hóa, kinh tế riêng biệt cho miền Nam Đại Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1>Kẻ bán người mua nơi cửa biển Faifo. </h1></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/7e5c6a71ebf49dc2662afeea12fb68ff1ec59d4a440e651fc60bdac7c5890787.webp"alt="hoi-an-3-10541420.webp"style="max-width: 100%;"><span class="image-caption"><i>Nguồn: "Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792-1793)" của tác giả John Barraow, Nguyễn Thừa Hỷ dịch</i></span></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p> Cristoforo Borri từng kinh ngạc ghi lại rằng, chỉ trên một dải bờ biển dài hơn trăm dặm mà đã có đến hơn sáu mươi bến đỗ riêng biệt, nhưng trung tâm của mọi sự nhộn nhịp ấy phải kể đến thương cảng lớn tại Quảng Nam - Hội An. Vào thế kỷ XVII, Hội An hiện lên như trái tim của dòng chảy mậu dịch Đông Nam Á, một cây cầu&nbsp; nơi phương Đông gặp gỡ phương Tây. Những con tàu buôn từ Nhật Bản, Trung Hoa, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Anh Quốc... lần lượt cập bến sông Hoài, mang theo sản vật, ngôn ngữ và văn hóa bốn phương.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mùa hội chợ kéo dài suốt bốn tháng, đường phố Hội An rộn ràng bước chân thương nhân, tiếng rao chan hòa trong hương quế, trầm hương và vị mật ong ngọt lịm từ các gánh hàng rong. Trong các ngôi nhà lợp ngói âm dương cổ kính, tiếng đàm phán vang lên rộn rã qua đủ các thứ tiếng. Dưới bến, hàng hóa như lụa, ngà voi, kỳ nam, tổ yến... được trao đổi tấp nập, như một bản giao hưởng không dứt của giao thương và hội tụ văn hóa. Hội An, từ đó, trở thành một trong những thương cảng quốc tế phồn vinh và sầm uất bậc nhất châu Á đương thời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sự thịnh vượng ấy không đến một cách ngẫu nhiên, mà gắn liền với tầm nhìn sâu rộng của các chúa Nguyễn trong việc thúc đẩy ngoại thương như trụ cột sống còn của Đàng Trong. Từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu, việc mở cửa đón thương nhân ngoại quốc được xem là một chính sách quốc gia. Số lượng tàu buôn nước ngoài cập cảng thậm chí được dùng như thước đo sự thịnh vượng của vương quốc. Người nước ngoài, đặc biệt là người Nhật, người Hoa, người Bồ và người Hà Lan, được chào đón nồng hậu và cấp đất lập bang buôn. Đàng Trong trở thành một xã hội cởi mở, nơi người dân và các phong tục, học thuyết tứ xứ được tiếp đón nồng hậu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Hoạt động thương mại của Đàng Trong trải dài khắp khu vực từ Nhật Bản, Trung Hoa (Quảng Châu, Phúc Kiến, Ma Cao), Xiêm La, Lào, Campuchia cho đến các quốc gia châu Âu như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp, Anh. Những mặt hàng xuất khẩu nổi bật bao gồm tơ lụa, hàng đan lát, long não, trầm hương, kỳ nam, vàng, mật ong, song mây và đặc biệt là tổ yến, thứ sản vật quý giá mà chỉ vua chúa được phép độc quyền buôn bán và dùng để cống nạp cho Thiên triều. Ở chiều ngược lại, Đàng Trong nhập khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng và kỹ nghệ như vải bông màu sặc sỡ, đồ thủy tinh, ngũ kim, lược, kim khâu, trang sức, vòng tay… Gạo, đặc biệt trong thế kỷ XVIII, cũng được nhập từ Campuchia và Xiêm để nuôi quân đội và kinh thành trong bối cảnh thiếu hụt lương thực.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ảnh hưởng của ngoại thương lan tỏa sâu rộng tới đời sống xã hội. Đời sống nhân dân Đàng Trong phồn thịnh đến mức tiều phu, thợ thủ công cũng có thể mặc lụa. Do nam giới bị động viên quân sự nhiều, phụ nữ đã đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, thương mại và giao dịch. Bên cạnh đó, quá trình giao lưu, tiếp xúc với các dân tộc bản địa và cư dân Chăm đã dẫn đến sự tiếp nhận linh hoạt nhiều yếu tố văn hóa bản địa, tạo nên bản sắc văn hóa phương Nam mềm dẻo, khoan dung và cởi mở hơn so với mô hình văn hóa Đàng Ngoài.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1> Tứ phương giao hòa, nên hồn văn hóa&nbsp;</h1></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p> Và hôm nay, dù những chiếc thuyền buôn đã thôi cập bến sông Hoài, cái hồn giao thoa ấy vẫn chưa bao giờ rời xa Hội An. Nó lặng lẽ sống trong từng viên gạch, mái ngói, trong cả tiếng rao buổi sớm và hơi thở nhịp nhàng của phố cổ lúc về khuya. Trên những con đường nhỏ lát gạch Bát Tràng, người ta vẫn thấy dáng dấp của một Hội An từng là ngã ba văn hóa. Đó là nơi người Việt dựng nhà, người Hoa mở tiệm, người Nhật dựng phố, người Tây dựng trường, truyền đạo. Ngôi nhà gỗ ba gian của người Việt khéo léo chồng lên mái ngói âm dương của người Hoa, trong khi chiếc lan can nhỏ bằng gỗ lại cong nhẹ như kiểu Nhật. Mọi thứ hòa vào nhau, chẳng phô trương, chẳng chiếm chỗ, mà quyện lại như một hơi thở rất riêng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người Hội An cũng vậy, từ lâu đã sống với tinh thần rộng mở. Họ học cách uống trà như người Á Đông, chào hỏi lễ phép kiểu người Nhật, nhưng cũng chẳng xa lạ gì với chiếc bánh mì kẹp thịt kiểu Pháp cho bữa sáng. Lối sống dung dị mà vẫn thanh lịch ấy là kết quả của nhiều thế hệ tiếp xúc và giao thoa với người tứ xứ. Họ giữ lại những gì hay, gạn lọc những gì hợp, từ đó hình thành nên một bản sắc mềm mại, linh hoạt mà rất đỗi tự nhiên.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, không khí cởi mở ấy vẫn hiện hữu trong cách người Hội An tiếp khách, mở cửa đón du khách năm châu, hay trong những lễ hội vừa truyền thống, vừa đa sắc màu hiện đại. Người ta có thể nghe tiếng chuông chùa hòa cùng tiếng thánh ca trong đêm Giáng Sinh, thấy quán trà Đạo đối diện một quán cà phê kiểu Pháp, hoặc cùng nhau nâng ly trong Tết Nguyên đán xen lẫn ánh sáng từ đèn lồng Nhật Bản. Những mảnh ghép văn hóa ấy vẫn hòa quyện, đắp nên linh hồn Hội An: một đô thị nhỏ, nhưng mang trái tim rộng lớn của một nền văn hóa giao thoa.</p></div>
Ảnh đại diện
Hồng Hải Tác giả mới
Hồng Hải Tác giả mới
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có một thời xa lắm, khi những chiếc iPhone, iPad còn chưa ra đời, khi màn hình cảm ứng chưa thay thế ánh đèn dầu leo lét trong mỗi đêm hội làng. Ấy là thời của những loại hình nghệ thuật đậm đà hồn dân tộc đã trở thành món ăn tinh thần in đậm trong tâm trí của mỗi người con đất Việt. Và có một thời, <i>“Hát bội làm tội người ta/ Đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con…”</i>. Hát Bội, hay hát tuồng, từng là ánh hào quang lấp lánh trên sân khấu truyền thống, là sự kết tinh của phong cách biểu diễn độc đáo cùng câu chuyện lịch sử, đạo lý đầy nhân văn. Dù ngày nay ánh đèn sân khấu ấy có phần lùi về phía sau trong đời sống hiện đại, nhưng những giá trị mà loại hình nghệ thuật này từng mang lại vẫn luôn là một phần ký ức văn hóa không thể thay thế.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1> Từ những ảnh hưởng của Hí kịch đến một loại hình nghệ thuật riêng biệt</h1></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nghệ sĩ ưu tú Hữu Danh từng chia sẻ với Báo Thanh niên khi được hỏi “Hát Bội của Việt Nam có gì giống và khác Kinh kịch Trung Quốc” rằng “<i>Cái tích đa số lấy từ Trung Quốc vì tầm ảnh hưởng của Trung Quốc quá lớn trong thời gian nó cai trị… Dần dà mình bớt ảnh hưởng bởi Trung Quốc, người ta mới viết về lịch sử Việt Nam.” </i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Quả thật, cho đến nay, câu chuyện về nguồn gốc của Hát Bội vẫn còn là đề tài gây nhiều tranh luận. Tuy nhiên, điều không ai có thể phủ nhận là tầm ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hóa Trung Hoa, người láng giềng vừa gần gũi, vừa nhiều duyên nợ. Ảnh hưởng ấy không chỉ đến từ hàng nghìn năm đô hộ, mà còn bắt nguồn từ chính nội lực của một nền văn minh rực rỡ, lâu đời. Để từ đó, văn hóa Trung Hoa đã lan tỏa khắp châu Á, từng bước in dấu vào đời sống văn hóa của các dân tộc lân cận, trong đó có Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo Trần Trọng Kim trong phần ghi chú 1, tr.174, cuốn Việt Nam sử lược, tập 1 là <i>“Khi quân nhà Trần đánh được quân nhà Nguyên, có bắt được một tên Hát Bội là Lý Nguyên Cát, sau nó ở lại nước ta lấy cổ truyện mà đặt thành bài tuồng, rồi dạy người mình hát. Khi con hát ra làm trò thì mặc áo gấm, áo vóc, theo nhịp đàn nhịp trống mà hát. Sự hát tuồng của Việt Nam bắt đầu từ đấy”</i>.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong khoảng thời gian 36 năm từ năm 1278 đến năm 1314, thế kỷ XIII-XIV, Hát Bội đã dần được định hình rõ nét như một loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền của Việt Nam. Lúc này, đã xuất hiện các yếu tố cơ bản để hình thành một đoàn hát chuyên nghiệp, bao gồm: một ông bầu, một thầy tuồng (đạo diễn) đảm nhiệm vai trò hướng dẫn, cùng một gánh hát nhỏ với 12 diễn viên đảm nhận các vai diễn đặc thù (như quan nhân, châu tử...). Phương thức biểu diễn tuồng được tổ chức bài bản, bao gồm sự luân phiên của các diễn viên trong việc ra vào sân khấu, vừa hát múa vừa thể hiện các trò diễn đặc trưng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Các vở diễn thời kỳ này đã có trình tự rõ ràng, gắn với những câu chuyện mang tính biểu tượng và dàn dựng công phu với các tiết mục như<i> “Giáng Hoàng Long”, “Yến Dao Trì”</i>, và y phục rực rỡ bằng gấm vóc thêu tinh xảo. Nội dung vở diễn thường xoay quanh các sự tích cổ, chẳng hạn như truyện <i>“Tây Vương Mẫu hiến bàn đào”</i>. Kể từ đó, Hát Bội phát triển mạnh mẽ và trở thành một hình thức giải trí không thể thiếu tại triều đình, phục vụ các vương công, đại thần. Theo ghi chép trong Việt Nam cổ văn học sử (tr. 366): <i>“Món hát tuồng đó đã trở thành một món tiêu khiển không thể thiếu được của các vương công đại thần.”</i> Thậm chí, như tài liệu Việt Nam cổ trung biên khảo (tr. 26, 27, trích dẫn từ Khâm định Việt sử, quyền 10, tr. 15 và Đại Việt sử ký toàn thư, quyền 7, tr. 24) còn ghi nhận: “<i>Khi ấy các thiếu niên hào khí trong nhà vương hầu tranh nhau tập hát tuồng</i>.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Về sau, Đào Duy Từ (1572 - 1634) chấn chỉnh lại nghệ thuật này, đồng thời sáng tác thêm các điệu múa mới, phóng tác kịch bản và đưa Hát Bội vào đời sống dân gian. Đến thế kỷ XIX, Đào Tấn (1845 - 1907) đã nâng Hát Bội lên tầm nghệ thuật hàn lâm bằng cách định hướng phát triển theo phong cách văn chương bác học, tập trung phục vụ tầng lớp trí thức trong cung đình. Nhờ sự am hiểu sâu sắc về nghệ thuật và văn hóa, ông đã đưa Hát Bội lên đỉnh cao về trình thức biểu diễn lẫn giá trị văn chương, khẳng định vị thế của loại hình này như một di sản mang đậm tính học thuật.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Khi được đưa vào Nam, Hát Bội dần thích nghi với đời sống dân gian và mang những sắc thái riêng biệt. Với tâm hồn phóng khoáng, Lê Văn Duyệt (1764 - 1832) không xem Hát Bội là loại hình nghệ thuật chỉ dành riêng cho tầng lớp thượng lưu, mà chủ trương giản lược những nghi thức cung đình, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng từ nghệ thuật biểu diễn của cộng đồng người Hoa và tinh thần cởi mở của miền đất mới. Nhờ đó, Hát Bội Nam Bộ dần hình thành phong cách đặc trưng: mạnh mẽ hơn, rực rỡ hơn, náo nhiệt và gần gũi với công chúng hơn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trước làn sóng văn hóa phương Tây và sự trỗi dậy của cải lương, kịch nói, Hát Bội dần mai một. Những năm thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX là những năm vô cùng khó khăn khi bị người đời khinh miệt là thứ <i>“tàn dư phong kiến”</i>. Dẫu vậy, loại hình này vẫn âm thầm sống trong lòng dân và đến khi đất nước yên bình trở lại, Hát Bội cũng dần được phục hồi, khẳng định giá trị độc đáo vốn có của mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1>Trồng người từ những vở diễn&nbsp;</h1></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/e96fda629b77ae58afc5ed315d150995e88269568dbdda4a87120348f2e6632b.webp"alt="base64-17295799945391971756595.webp"style="max-width: 100%;"><span class="image-caption"><i>Nghệ sĩ Tô Châu (phải, vai Trương Định) và Vũ Luân (vai Nguyễn Trung Trực) - Nguồn: Báo Tuổi trẻ Online</i></span></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p> Hát Bội là loại hình sân khấu mang tính giáo dục cao, thường diễn lại những sự tích trong truyện cổ, nhằm đề cao những tấm gương anh hùng và khắc sâu các giá trị đạo đức truyền thống. Một ví dụ điển hình có thể kể đến là vở diễn Anh hùng. Vở diễn Anh hùng đất phương Nam nêu bật hình tượng người hùng kháng Pháp Nguyễn Trung Trực với loạt chiến công được truyền tụng muôn đời. Đồng thời, vở diễn cũng tái hiện rõ nét là hành trình gian khó của lực lượng nghĩa binh đã đồng cam cộng khổ cùng người thủ lĩnh lang bạt khắp lục tỉnh. Thông qua từng câu hát, từng động tác vũ đạo, Hát Bội đã gieo vào lòng người xem tinh thần yêu nước, lòng trung nghĩa và sự kiên cường bất khuất, những giá trị văn hóa đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Các vở tuồng còn làm đẹp cho đời khi truyền bá các giá trị văn hóa và tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo. Nhiều vở tuồng lồng ghép các quan niệm nhân sinh quen thuộc như <i>“gieo gió gặt bão”, “ở hiền gặp lành”, “hết cơn bĩ cực đến thời thái lai”</i>, nhấn mạnh sự công bằng trong cuộc sống: cái thiện luôn chiến thắng cái ác, những khổ đau rồi cũng qua đi, nhường chỗ cho sự bình yên và hạnh phúc. Qua đó, Hát Bội đã góp phần củng cố niềm tin vào lẽ phải, công lý và sự vận hành của quy luật nhân quả trong đời sống.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Bên cạnh đó, Hát Bội còn phản ánh những vấn đề xã hội đương thời, trở thành tấm gương phản chiếu những mặt tốt đẹp lẫn tiêu cực trong đời sống như Trương Ngáo, Xã Dốt lấy vợ, hay Di tình. Các vở diễn không ngại lên án những thói hư tật xấu như tham lam, bội bạc, bất nhân, đồng thời ca ngợi sự trung thực, thủy chung và lòng hiếu thảo. Chính qua những thước tuồng đầy cảm xúc ấy, Hát Bội nhấn mạnh đến việc hun đúc nhân tâm, gìn giữ và lan tỏa những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1>Hóa trang - đất tốt để ươm mầm&nbsp;</h1></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/a42a698e6ae4d1e440d7712bc7e8fcbe717c2f3f6b54779b7c8cd9f3b585e118.jpg"alt="1.jpg"style="max-width: 100%;"><span class="image-caption"><i>Nguồn:&nbsp;Trang tin Điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh.</i></span></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p> Nếu như nội dung các vở diễn là con đường trực tiếp gieo trồng tư tưởng, hun đúc phẩm chất và truyền tải những chuẩn mực đạo đức đến khán giả, thì nghệ thuật hóa trang trong Hát Bội lại chính là phương tiện gián tiếp nhưng vô cùng tinh tế để truyền tải những giá trị ấy. Dù khiêm nhường, thầm lặng, từng nét vẽ trên khuôn mặt nhân vật vẫn mang sức mạnh biểu đạt sâu sắc.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lê Văn Chiêu từng viết “<i>nếu không hóa trang, dậm màu, làm mặt để tạo nên một diện mạo nào đó thì không có Hát Bội”</i>. Nói cách khác, Nghệ thuật hóa trang trong Tuồng rất công phu, tỉ mỉ, các đường nét đều được tô đậm, rõ ràng. Đặc trưng cơ bản của nghệ thuật sân khấu tuồng là ước lệ, cách điệu, nên hóa trang vẽ mặt cũng dùng thủ pháp ấy. Đường nét và màu sắc trong hóa trang vẽ mặt được tinh giảm, gợi hình, tượng trưng, chắt lọc những nét bản chất nhất để thể hiện ngoại hình, nội tâm nhân vật.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đầu tiên, trang phục của Hát Bội rất đa dạng, bao gồm mũ (mão), áo, xiêm, giáp (mãng), khăn, nón chóp (quân binh), thắt lưng, đai, hia, ủng… Màu sắc và kiểu dáng của trang phục thường mang ý nghĩa biểu tượng rõ rệt, giúp khán giả nhận diện nhân vật là vua chúa, quan lại, binh lính, hay thường dân. Các chi tiết trang trí như hoa văn rồng, phượng, hay họa tiết đặc trưng cũng góp phần làm nổi bật vẻ quyền uy hoặc tính cách riêng của nhân vật.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngoài trang phục, Hát Bội thường vẽ mặt rất kỹ chứ không đeo mặt nạ. Các màu sắc được sử dụng thường là đỏ tươi, đỏ bầm, hồng lợt, vàng, vàng kim, tím, xanh da trời, xanh lá cây, xám tro, bạc,... Mỗi màu tượng trưng cho nhân cách của nhân vật. Ví dụ như mặt đỏ tượng trưng cho người anh hùng, nghĩa khí; màu trắng mốc, màu xám hoặc hồng lợt tượng trưng cho gian thần, nịnh thần…</p></div><div class="block-wrapper" type="header"><h1> Tỏa hương trong đời sống hiện đại</h1></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/7016261ee65964c1867b6e80148ab541feb62f47682670fa0e32751ad02ed8db.jpg"alt="a47cecd9db01d0d64614cfd29cc786a46fdbdd8865c44fe12be01af66dfde632.jpg"style="max-width: 100%;"><span class="image-caption"><i>Nguồn:&nbsp;Trang tin Điện tử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh.</i></span></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p> Hát Bội, tuy là một văn hóa đặc sắc của người Việt Nam nói chung và nhân dân Nam Bộ nói riêng nhưng đã dần trở thành một thứ cổ vật bị lãng quên đến đáng thương giữa nhịp sống hiện đại. Từ những buổi diễn trang nghiêm nơi đình làng, chùa cổ, Hát Bội giờ đây hiếm khi cất giọng giữa chốn đông người, dần xa vời trong ký ức của lớp trẻ. NSƯT Ngọc Nga, nguyên Phó Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật Hát Bội TP.HCM, từng trăn trở: <i>“Cái khó của hát bội hiện nay là thiếu hụt lớp người kế thừa và ngày càng trở nên xa lạ với giới trẻ”.</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trước thực trạng ấy, Hát Bội không ngừng tự làm mới mình để tiếp cận gần hơn với công chúng hôm nay. Những nỗ lực “trẻ hóa” đã và đang được thực hiện như đơn giản hóa Hán văn, chuyển sang dùng ngôn ngữ thuần Việt; rút gọn thời lượng, tiết chế vũ đạo rườm rà; cải tiến nhạc nền, nâng cao chất lượng biểu diễn; giữ mạch truyện gọn ghẽ nhưng vẫn truyền cảm. Những thay đổi ấy vừa giúp khán giả dễ tiếp cận hơn, vừa giữ lại tinh thần cốt lõi của tuồng cổ - nơi nghệ thuật không chỉ là giải trí, mà còn là bài học về đạo đức, lòng trung hiếu và bản sắc dân tộc.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tôi cho rằng, Hát Bội, cũng như nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống khác, cũng cần những sự thay đổi để thích nghi với đời sống hiện đại; đồng thời, thế hệ trẻ cũng cần được tạo điều kiện để lắng nghe, thấu hiểu và dấn thân. Chúng ta không thể đòi hỏi giới trẻ yêu mến một điều mà họ chưa từng có cơ hội tiếp xúc một cách gần gũi, sinh động. Khi người trẻ được giao lưu với nghệ nhân, được thử làm diễn viên, được hóa thân và khám phá câu chuyện phía sau từng lớp hóa trang, họ có thể trở thành cầu nối lan tỏa giá trị. Sự hồi sinh của Hát Bội, vì thế, không nằm ở việc giữ nguyên mọi thứ như xưa, mà nằm ở chỗ dũng cảm đổi mới trong cái gốc truyền thống, và trong việc gieo vào lòng thế hệ mới niềm tự hào, tinh thần gìn giữ những gì ông cha để lại.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vậy còn bạn, liệu rằng, bạn có dám tìm hiểu, nghiên cứu để rồi làm mới một loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc…?</p></div>