Đứa trẻ nào mà chẳng khát khao vầng thái dương rực rỡ.
Nhưng đôi khi, chính những mảnh trăng không trọn vẹn lại là ánh sáng duy nhất trong giờ phút tăm tối của cuộc đời.
Từng ngọn sóng rì rầm vỗ về lên bờ cát, thủ thỉ chuyện trò với những chiếc ghe và thuyền thúng đang thiu thiu nằm nghỉ dưới ánh nắng chiều. Nguyên hít đầy lồng ngực hơi gió muối mặn mà. Từ chỗ nó đang ngồi nơi bãi biển Sơn Trà, phóng tầm mắt có thể thấy những tòa nhà chọc trời vươn cao tráng lệ nơi trung tâm thành phố Đà Nẵng. Sau giờ học Nguyên rất hay ra đây, dõi về phía khu đô thị từ khoảng cách xa xa này. Nó chẳng buồn về căn phòng trọ nằm nép mình trong con xóm bình dân, vì thừa biết má phải khuya lơ khuya lắc mới về. Người ta lời ra tiếng vào về công việc của má, nhưng nó ngó lơ, bỏ ngoài tai coi như không biết. Tính ra, Nguyên chỉ thấy má đang vùi đầu ngủ khi dậy chuẩn bị xách cặp đi học buổi sáng; chiều về thì má đã đi rồi, trên sàn nhà để tô cơm úp lồng bàn cho nó. Biết thế, nên nó chẳng vội về. Nguyên đặt cặp bên hông, lôi ra một quyển truyện để đọc. Tất cả tiền ăn quà má cho, nó đều mang ra cái tiệm sập sệ kế bên trường để thuê truyện. Có lẽ đây là thú vui duy nhất mà một thằng bé lớp 6 có thể làm, một mình.
“Ê cái chi rứa bay?”
Nguyên giật mình đánh thót. Chưa kịp phản ứng thì một bàn tay từ đằng sau đã bất thần giật phắt quyển truyện trong nó đang cầm. Nguyên bắn khỏi chỗ ngồi như có ai gắn phản lực vào chân. Trước mặt nó lúc này là hai ba đứa nhóc đang đứng cười nhăn nhở, một thằng vung vẩy thứ chiến lợi phẩm mới tước đoạt được.
“Tau hông giỡn với mi nha Quân.” Nguyên sa sầm nét mặt. Tụi trẻ con ở đây đứa nào chẳng biết nhau, không cùng xóm, cùng lớp, thì cũng cùng trường. Thằng Quân và đám đàn em của nó chẳng những học chung với Nguyên, mà còn chỉ ở cách nhà nó hai con hẻm. Dù Nguyên có muốn cố tránh mặt thì chúng cũng tìm được cách nào đấy để đón lõng, cà khịa thằng bé.
“Toàn chữ là chữ, chán phèo chứ có chi mà thích rứa?” Quân bĩu môi nhìn những trang giấy đang giằng co phần phật trong gió. Nguyên lao vô tính giật lại, nhưng thằng oắt lém lỉnh đã kịp ném sang cho đứa bên cạnh.
“Đừng! Hư của tau đó!” Nguyên uất ức rượt theo quyển sách tội nghiệp bị chuyền qua chuyền lại giữa sáu bàn tay thô bạo. Thằng Quân vẫn nhây, vẫy vẫy quyển sách đầy khiêu khích.
“Thì mi làm được gì tau? Mách ba mi hả?”
Cảm giác tức giận và tuyệt vọng trào lên làm sống mũi Nguyên cay xè. Nó xông thẳng vào Quân, xô thằng oắt té chỏng gọng trên nền cát. Rồi như mất trí, Nguyên đè lên người Quân và đấm nó túi bụi. Hai đứa nhóc kia thấy vẻ hùng hổ của Nguyên thì rén ngang, không dám lại giải cứu đồng bọn. Thay vào đó, chúng sử dụng chiến thuật khóc la ầm ĩ, chạy đì tìm cứu viện. Không lâu sau thì hai đứa quay lại cùng má thằng Quân. Thím Tư bán nước dọc bãi biển cho khách du lịch. Chắc hôm nay tụi nó theo uống ké nước dừa, tình cờ thấy Nguyên ngồi đó nên nảy ý đồ bắt nạt. Khi má Quân đẩy được Nguyên ra khỏi cậu quý tử thì thằng Quân trông đã khá thẳm. Mặt mũi nó trầy trụi thâm tím, quần áo xốc xếch, rách mấy chỗ. Thím Tư đứng chắn giữa Nguyên và mấy đứa kia, mặt hầm hầm, chỉ tay vào mặt nó mà gắt gỏng:
“Nó giỡn thôi, răng mi chơi ác rứa? Đúng là cái thứ không có cha, quen thói côn đồ.”
Nguyên thấy mắt mình mờ đi, tai ù ù như đang có bão từ ngoài khơi đổ bộ. Nó chộp cái cặp và quyển sách lăn lóc trên bãi cát rồi bỏ chạy thục mạng. Không được để tụi thằng Quân thấy mình khóc! Nguyên tự nhủ và cứ chạy mãi, chạy mãi. Rồi đôi chân nó đầu hàng và bỏ mặc tấm thân nó đổ vật xuống đất. Nguyên nằm đó, khó nhọc thở, đầu óc quay cuồng.
Lại một lần nữa, sẽ không có ai đỡ nó dậy.
***
Mùi nhang trầm phảng phất trong không gian thanh bình, tĩnh mịch. Khấn Phật xong, bà Liên khoan thai bước xuống từng bậc thềm đá. Dưới mái ngói thanh lưu ly uốn lượn mềm mại, đôi Lưỡng Long chầu Nguyệt vươn lên đầy uy nghi. Sảnh lớn chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn lát đá trắng thanh tịnh, mở ra không gian trải dài đến nơi giáp ranh giữa biển và trời. Trong khoảnh khắc, bà Liên cảm thấy nỗi niềm canh cánh trong lòng được vợi bớt phần nào. Đã từ rất lâu, đi đâu bà cũng đến các chùa chiền dâng hương, những mong lời khẩn cầu thành tâm sẽ một ngày thấu đến chốn Phật. Tà áo dài nhung đen sang trọng hài hòa với mái đầu bạc búi cao, tôn lên phong thái đoan trang của bà. Gió biển khẽ lay những nhành cây bon sai, mang lại cảm giác mát mẻ dễ chịu giữa cao điểm mùa hè, khác hẳn với cái nóng đến khó thở ở Hà Nội nơi bà Liên sống.
“Cũng chiều rồi, con chở các bà về resort nhé.” Trung, tài xế khiêm hướng dẫn viên khiêm tạp vụ đi cùng cất tiếng hỏi. Bà Liên khẽ gật đầu. Mỗi khi bà và hội bạn cao tuổi đi nghỉ dưỡng, ông Thắng, con trai bà, luôn chu đáo cử người trợ lý thân tín nhất đi theo chăm sóc tận tình. Mọi người cùng đoàn luôn xuýt xoa khen bà có phước. Nhìn bên ngoài đâu ai biết vẫn luôn tồn tại một khoảng trống chưa thể khỏa lấp trong lòng người phụ nữ quý phái này.
Bà Liên đưa tay trái lên nhìn giờ. Sau chuyến công du châu Âu, anh Thắng biếu mẹ một chiếc đồng hồ chế tác thủ công, khảm đá quý trang nhã, đeo trên tay không khác gì vòng trang sức tinh tế. Bà luôn nhận được sự trầm trồ tán thưởng mỗi khi đeo nó. Sáng nay cũng vậy, mọi người trong đoàn đều chú ý, khen ngợi không ngớt.
Chỉ có điều, chiếc đồng hồ quý giá ấy hiện không còn trên tay bà nữa.
Mọi người bỗng chốc trở nên xôn xao. Bà Liên luống cuống đi ngược lại đoạn đường đã qua. Khi đến chùa bà nhớ đã xem giờ, nên chắc chắn chỉ làm mất quanh đây. Khi quay lại chỗ băng ghế lúc nãy đoàn ngồi nghỉ, bà Liên thấy một đứa bé độ mười tuổi. Vừa nhác thấy bà, thằng bé như đã ngóng từ lâu, lên tiếng hỏi ngay.
“Bà ơi, bà có làm rớt chi không?”
“Có, bà bị mất đồng hồ.”
Thằng bé cầm chiếc đồng hồ đắt tiền bằng hai tay, đưa cho bà.
“Lúc bà rời đi, con thấy rớt cái ni. Mà bà đi mô con không biết, nên con đợi bà quay lại.”
Bà Liên nhận lại đồng hồ, nhưng tim bà như ngừng đập, mắt nhìn chằm chằm vào khuôn mặt thằng bé. Cánh mũi, đôi môi, gò má, mọi chi tiết thân thuộc đến khó tin. Trừ khi đôi mắt đã hoàn toàn lừa gạt bà, chứ đây không thể là trùng hợp ngẫu nhiên được. Lòng bà dâng lên một cảm xúc như sóng trào.
“Cháu… cháu tên gì? Con cái nhà ai?” bà Liên hỏi, giọng run run.
“Con tên Nguyên.” thằng nhỏ gãy gãy đầu, có vẻ bối rối vì câu hỏi dồn dập. “Thôi con xin phép bà con về.”
Bà Liên chưa kịp hỏi gì thêm thì thằng nhỏ đã co giò chạy, chẳng hề nán lại để nhận một lời cảm ơn hay khen thưởng từ hành động tử tế vừa nãy. Bà vội gọi anh Trung lại.
“Anh thường vào đây công tác, có biết thằng bé vừa rồi là con nhà ai không?”
Anh trợ lý chưa hiểu mô tê gì, nhưng vẫn đáp “Con chưa chắc lắm, nhưng con có thể hỏi cho bà.”
“Ừ, anh tìm rõ lý lịch thằng bé cho tôi, càng sớm càng tốt.”
***
Bà Liên chăm chú đọc những giấy tờ trợ lý Trung đặt kín mặt bàn. Trán bà nhíu lại khi nhìn hai tấm ảnh chụp đứa trẻ độ mười tuổi đặt cạnh nhau. Một tấm là hình màu mới gần đây, tấm kia là hình đen trắng bà vẫn luôn giữ kỹ bên mình. Ngày xưa chiến tranh, khó khăn, có duy nhất cái ảnh lúc bé này của con trai, nên với bà quý giá lắm.
“Cậu bé Nguyên đúng là nhiều nét quá giống anh Thắng, bà ạ.” trợ lý Trung bình luận. Quả thật, từ đôi mắt, miệng cười, đến thần thái đều hao hao. Bà Liên nhìn không chớp mắt, cảm thấy sống mũi cay cay.
“Bé Nguyên vừa vào lớp 6, năm nay 11 tuổi. Hơn 10 năm trước đúng là sếp đang mở chi nhánh ở Đà Nẵng. Cháu cũng vừa bắt đầu làm trợ lý cho anh ấy vào thời gian đó.”
“Cái cô Linh này… làm nghề đó đến bây giờ cơ à?” Bà Liên cầm tấm ảnh chụp cô gái trẻ lên. Một chút khinh miệt thoáng vương trong câu hỏi của bà.
“Chuyện cô ấy làm gì bây giờ cháu không đi sâu tìm hiểu ạ.” trợ lý Trung né tránh chủ đề “Chỉ là… cô Linh thật sự đã phục vụ ở trung tâm hội nghị công ty cháu hay tổ chức đãi khách.”
Như để nỗ lực làm dịu bầu không khí đang nặng nề dần bởi nét mặt sa sầm của bà Liên, anh Trung ra sức phân bua.
“Mong bà thông cảm cho sếp. Làm ăn ai chẳng cần tạo quan hệ. Việc đi uống hơi quá chén, ở lại khách sạn qua đêm âu cũng là bất khả kháng thôi ạ.”
“Đàn ông các anh lúc nào chẳng lý gio lý trấu.” bà Liên gom tài liệu trên bàn, cất gọn vào bìa hồ sơ “Dù sao cũng cám ơn anh đã điều tra cẩn thận. Việc còn lại tôi tự giải quyết.”
***
Ông Thắng mở cửa kính để gió trời lùa vào, hơi nhăn mặt khi chiếc xe bật xóc vì mặt đường đê gập ghềnh. Vốn đã quen với tính khí hơi thất thường của mẹ, nhưng đây là lần đầu vị doanh nhân thành đạt này phải hoãn chuyến công tác vì thân mẫu gọi về nhà thờ họ khẩn cấp đến mức này. Ông đoán già đoán non nát cả óc cũng không nghĩ ra được chuyện gì đủ kinh thiên động địa đến thế. Vừa vào địa phận Thanh Oai, dù mang tiếng là thuộc Hà Nội, quang cảnh nơi đây khác sự sầm uất nội đô một trời một vực. Dọc con đê vắt ngang sông Đáy vẫn là ruộng mương, ao chuông nhiều lắm, dù các nhà gạch ngói đã bắt đầu được xây lên nhiều hơn.
Chiếc xe chạy qua cổng gỗ lim lớn, đỗ ở cái sân rộng lát gạch đỏ. Ông Thắng sải bước trên chiếc cầu nhỏ bắc qua ao. Đương hè, mặt nước phủ lớp bèo xanh, điểm xuyết những đóa hoa súng đỏ rực. Căn nhà thờ họ chính tay ông xây dựng, trùng tu theo thiết kế ba gian xưa. Bàn thờ đặt ngay gian giữa rất lớn, nhang đèn quanh năm. Vừa bước chân vào, ông Thắng đã thấy mẹ mình, bà Liên, ngồi đợi sẵn trên chiếc phản gỗ gụ kê gần đó. Gương mặt bà đăm chiêu, tay nắm chặt một tập giấy gì đó như thể đó là báu vật tổ tiên truyền lại.
“Thưa mẹ con đã về. Có chuyện gì mà…” không để con mình nói hết câu, bà Liên đã chìa tập hồ sơ ra cho ông xem. Ông Thắng nhìn chăm chăm vào hàng loạt những tấm ảnh chụp một đứa bé khoảng 10 tuổi, và một người phụ nữ nom nửa lạ nửa quen, nhất thời vẫn chưa hiểu ra điều gì.
“Anh có nhận ra hai mẹ con họ không?”
“Con không nhận ra. Họ là ai vậy?”
“Anh mở to mắt nhìn kỹ đi.” Bà Liên đưa thêm cho ông một tấm ảnh nữa, cũng là chụp đứa trẻ nhưng là ảnh đen trắng.
“Đây là ảnh hồi xưa của anh. Anh xem thằng bé kia có giống y đúc anh không?” giọng bà Liên rưng rưng, rõ ràng bà đã xúc động lắm rồi.
“Đúng là rất giống.” Ông Thắng phải công nhận.
“Hơn mười năm trước, anh đi làm ăn ở Đà Nẵng, có nhớ ai tên Linh không?”
Não ông cố chạy hết công suất. Dường như ông có mang máng nhớ, nhưng nhiều năm đã qua, ký ức chỉ như những mảnh vụn mờ mờ ảo ảo.
“Cô ta là tiếp viên phòng tiệc anh hay tổ chức mời khách. Thằng bé Nguyên này, năm nay 11 tuổi, lại giống anh như tạc, tôi chỉ nhìn qua là nhận ra ngay. Anh còn cách giải thích nào khác không?”
“Mẹ, con thật sự không biết gì về họ cả.”
“Tôi đẻ ra anh tôi còn lạ gì. Anh dám nhìn vào di ảnh bố anh trên bàn thờ kia mà nói là anh chưa từng có quan hệ léng phéng gì bên ngoài không?” bà Liên bất ngờ lớn tiếng. Ông Thắng im lặng. Ông biết rõ mình từng đi tiếp khách nhiều. Có những đêm xa nhà, uống say đến không nhớ gì, thì đương nhiên không thể quả quyết về chuyện đó. Trong ông lúc này đủ loại suy nghĩ ngổn ngang: cảm giác tội lỗi như kẻ bị bắt gian, đồng thời cố gắng tự phân trần rằng đó là một phần cần thiết để tồn tại ở thương trường. Từ hai bàn tay trắng, ông đã trải qua bao nhiêu, hy sinh bao nhiêu để tạo dựng được doanh nghiệp lớn như bây giờ. Mọi nỗ lực của ông không phải cốt cũng chỉ để mẹ ông nở mày nở mặt đấy sao?
“Anh im lặng là đúng rồi, có phải không?” nước mắt đã bắt đầu rỉ ra từ khóe mắt bà Liên. Rồi trước sự ngạc nhiên của ông Thắng, bà bước vội đến bàn thờ, mừng rỡ chắp tay khấn vái.
“Tạ ơn Trời Phật, tạ ơn các cụ phù hộ độ trì. Thế là nhà ta đã có cháu đích tôn nối dõi rồi.”
Ông Thắng gắng gượng chui ra khỏi mớ bòng bong trong đầu. Vậy ra mẹ không triệu ông về để trách cứ cái quá khứ đáng xấu hổ trước đây. Trái lại, bà đang vô cùng mừng rỡ trước khả năng ông có con riêng bên ngoài. Lâu nay ông Thắng đã nghe đến rác tai lời thúc giục sinh thêm con sau khi đứa đầu lòng là gái. Tuy nhiên ông cũng không ngờ mẹ mình lại khát cháu đến mức không màng tai tiếng mà hân hoan đi nhận một đứa trẻ lưu lạc bên ngoài về.
“Anh thu xếp cho tôi đi Đà Nẵng đón thằng bé càng sớm càng tốt.” bà Liên quay lại nói tiếp. Nước mắt đã khô, gương mặt bà ngời ngời rạng rỡ như trẻ ra mấy tuổi.
“Chuyện hệ trọng thế này sao có thể gấp thế được ạ? Còn Oanh, liệu cô ấy có chấp nhận không?” Ông Thắng lúng túng thoái thác, nhưng ông cũng quá biết sự kiên quyết của mẹ ông. Gương mặt bà Liên đanh lại. Lần duy nhất bà thuận theo ý con trai là để ông Thắng lấy vợ ở Sài Gòn, và điều đó khiến bà hối mãi đến giờ. Vậy nên dù trời có sập xuống bà cũng sẽ không chịu nhượng bộ nữa.
“Tôi gọi anh về không phải là để hỏi ý kiến, mà để thông báo. Còn vợ anh, anh tự mà đi nói với nó.”
***
Trưa Sài Gòn nắng như đổ lửa. An chầm chậm đạp xe về nhà. Ngoài học chính khóa, trong hè mẹ cũng đăng ký cho nhỏ đi học nâng cao và ngoại ngữ. Cuộc sống của cô bé mười bốn tuổi là một vòng lặp cố định từ nhà đến trường rồi từ trường về nhà. Mọi thứ đều đặn theo lịch trình được dựng sẵn, không gì lệch khỏi quỹ đạo. Nếu có, họa chăng chỉ là những ngày hiếm hoi mà ba An về thăm.
Vừa dắt xe vào đến cửa, An đã nhận ra mùi cà phê từ phòng khách. Nhà nhỏ từ ông bà ngoại đến mẹ đều chỉ dùng trà, nên mùi hương này là một tín hiệu đặc biệt: ba về. Ngày xưa khi An còn bé xíu và ba còn ở nhà, sáng nào ba cũng pha một phin cà phê và ngồi hút thuốc, đọc báo ở ngoài hiên. Dần dần, ba đi ra bắc lập nghiệp, những buổi sáng mang hương vị thơm đắng thưa thớt dần, gần như mất hẳn. Tuy vậy, An đã kịp ghi thật rõ vào tiềm thức, mong chờ nó từng ngày. Thế nên vào lúc này, chỉ cần thoáng nghe một cái là nụ cười đã thắp sáng gương mặt nhỏ. An nhảy chân sáo lên bậc cấp vào nhà.
Nụ cười ấy vụt tắt nhanh như lúc nó hiện ra.
An sựng lại bên cửa vì tiếng cãi vã vọng ra từ bên trong. Đây cũng là âm thanh nhỏ đã quá quen. Ba mẹ nhỏ khắc khẩu, to tiếng với nhau thường xuyên. Lúc đầu họ còn giấu, song dần dần thì việc này trở nên bình thường như cân đường hộp sữa. An tự học cách che mắt bịt tai mình, học bài hay đọc sách để coi như những âm thanh khó nghe đó vọng đến từ thế giới khác. Lần này cũng vậy, theo phản xạ, nhỏ chui ra sau cánh cửa, ngồi vùi mặt vào đầu gối, cố khiến mình nhỏ bé đi, trở nên vô hình.
“Tôi biết là tôi có lỗi với bà, nhưng tôi cũng không thể không nhận trách nhiệm.”
“Từ bao giờ ông biết thế nào là trách nhiệm? Ông đối với An thế nào? Nó cũng là con ông đấy.”
Có tiếng gì đổ bể trong nhà, và vài câu đấu khẩu qua lại, An không rõ nữa, cố bịt chặt tai. Một lúc sau, nhỏ nhận thấy đôi chân bước vội. Hé mắt nhìn từ sau cánh cửa, An chỉ kịp dõi theo bóng lưng ba vội vã đóng cửa xe phóng đi. Bên trong phòng khách, mẹ nhỏ ngồi đó, tâm trạng cũng ngổn ngang như bộ ấm chén đổ vỡ trên sàn. An len lén bước vào, nhặt gói bánh rơi giữa những mảnh sành.
“Ba… lại đi rồi hả mẹ?” An nói một câu bâng quơ, và lập tức hối hận. Lời ấy như chọc vào tổ kiến lửa trong lòng mẹ cô. Bà Oanh đứng bật dậy, hất gói bánh trên tay An rớt xuống trở lại.
“Đừng nhắc đến ông ta nữa.” mẹ cô gào lên, đồng thời dậm chân liên hồi lên mấy chiếc bánh như thể đó là cái người bà đang căm giận đến tột độ. Giải tỏa xong, mẹ An quay sang nhỏ, giọng vô cảm.
“Mẹ lên văn phòng. Hôm nay sẽ làm muộn. Con tự lo cơm nước. Đừng quên chiều nay cô giáo đến kèm thêm tiếng Anh đấy.”
Nói đoạn, bà Oanh lấy xe máy đi. An lặng lẽ ngồi lượm lại những cái bánh rán vừng vốn tròn vo, nay đã nát vụn vì bị giẫm. Hồi nhỏ ba từng hỏi An thích gì, nhỏ nói thích bánh rán vừng. Thế là lần vào về ba cũng mua cho, không bao giờ thiếu.
Và An luôn ăn hết. Kể cả khi chúng đã nát bấy, chẳng còn ra hình thù gì như lúc này. Giữa những mảnh sứ vỡ sắc lạnh, cô bé cố nhặt nhạnh, níu kéo mẩu còn lại của tình thương. Miếng bánh lạo xạo trong miệng vì lẫn với sạn và vụn sành. Vị mặn từ hai dòng nước chảy trên mặt nhỏ loang ra, trộn lẫn với vị bột nếp và đậu xanh.
***