Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thái sư Trần Thủ Độ là nhân vật nổi tiếng bậc nhất trong triều đại phong kiến nhà Trần, ông có vai trò đóng góp to lớn cho cuộc chuyển giao ngai vàng từ họ Lý sang họ Trần thông qua sự kiện Nữ đế Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là vua Trần Thái Tông năm 1225. Cuộc đời ông trở thành nguồn cảm hứng đặc biệt trong các nghiên cứu lịch sử, văn hoá, trong sáng tác văn chương, biểu diễn nghệ thuật và cả lĩnh vực điện ảnh. Bởi thế mà ở bài này, người viết chẳng thể kể hết, chỉ mạn phép chia sẻ đôi điều có thể nhiều người chưa biết về Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/99e199f98faffe8a2ae7fa557b615121db1dfede84d9c9e35b010bf526baf833.jpg"alt="10. Tran Thu Do.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>Hé lộ thân thế: Trần Thủ Độ rất có thể là cháu ngoại vua Lý Anh Tông</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong chính sử không đề cập rõ về thân thế của Trần Thủ Độ, chỉ nói ông là em họ của Thái Tổ Trần Thừa, chú họ vua Trần Thái Tông. Song ở các nguồn tư liệu dân gian như gia phả dòng họ Trần, gia phả Trần Ích Tắc biên soạn còn truyền lại ở Trung Quốc có thêm nhiều thông tin hơn. Người viết đã rất bất ngờ khi đọc được thông tin cha mẹ Trần Thủ Độ &nbsp;lại vốn là phò mã, công chúa nhà Lý. Theo đó cha của Trần Thủ Độ là Trần Thủ Huy, một trang nam nhi giỏi võ nghệ đã từng giúp đỡ và phò trợ Thái tử cũ Lý Long Xưởng. Nhờ lập công với triều đình mà Trần Thủ Huy được vua Lý Cao Tông gả công chúa Đoan Nghi (con gái vua Lý Anh Tông) và trở thành phò mã. Về sau, vì nghe lời gièm pha (có lẽ là liên đới với việc Chiêu Linh thái hậu và Thái tử cũ Lý Long Xưởng gây rối), vua Lý đã sai phò mã Trần Thủ Huy và công chúa Đoan Nghi đi sứ nước Liêu (Mông Cổ). Thời đó đi sứ phương xa chẳng khác nào bị đi đày, công chúa Đoan Nghi đã sinh ra Trần Thủ Độ khi ở Liêu quốc, còn con trai đầu là Trần Thẩm thì được gửi lại nhờ người bác họ Trần Lý nuôi dạy. Lớn lên, Trần Thủ Độ được gửi về nước và ở với Trần Lý rồi tham gia vào đại nghiệp của họ Trần. Điều này rất phù hợp với việc Trần Thủ Độ thường tự nhận <i>“Ta không biết chữ nghĩa gì”</i> ý là khi ở với cha mẹ tại nước Liêu thì ông không có điều kiện học hành đầy đủ. Theo các tài liệu trên thì cha mẹ Trần Thủ Độ có khả năng đã mất hoặc sống lưu vong và không có mặt ở Đại Việt khi nhà Trần khởi nghiệp.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cá nhân người viết cho tư liệu đó khá đáng tin và giúp lý giải được thái độ, hành xử cực kỳ phũ phàng của Trần Thủ Độ đối với vua Lý Huệ Tông, Lý Chiêu Hoàng và tôn thất họ Lý sau này.&nbsp; Mặc dù là cháu ngoại họ Lý nhưng bởi do nhà vua bắt cha đi sứ mà gia đình ly tán anh em xa lìa, cha mẹ bất mãn, chịu nhiều vất vả, sớm qua đời là lý do Trần Thủ Độ đã hình thành quan điểm đoạn tuyệt với họ ngoại, ôm mối ân oán dẫn tới những hành động tàn nhẫn, thẳng tay diệt trừ hoàng tộc họ Lý. Trong Đông A di sự, bàn tới lá số tử vi của Trần Thủ Độ có đoạn khi xem lá số cho Thái sư, Huệ Túc phu nhân nói:<i> “Tiên sinh chịu ơn ai một bát cơm, sau sẽ trả bằng một kho thóc. Bị ai mắng một câu, sau này tiên sinh sẽ tru di tam tộc nhà người ta.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>Chủ trương kết hôn nội tộc</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chuyện anh chị em họ kết hôn với nhau là điều thường thấy trong các triều đại phong kiến trên toàn thế giới nhằm mục đích liên hôn chính trị, đảm bảo lợi ích gia tộc. Nhưng tại Đại Việt thời xưa chỉ cho phép việc kết hôn giữa anh chị em họ ngoại con cô con cậu, con dì con già với nhau (khác họ) chứ tuyệt đối không được phép kết hôn trong nội tộc (cùng họ). Và Trần Thủ Độ chính là người đầu tiên có cuộc hôn nhân trái luân thường, ông và người vợ Trần Thị Dung vốn là chị em họ con chú con bác cùng nội tộc. Ông cũng là người đưa ra quy định kết hôn cận huyết chỉ cho phép con cháu Hoàng tộc nhà Trần được kết hôn trong nội tộc với lý do để tránh nạn ngoại thích cướp ngôi (như chính cách nhà Trần đi lên từ ngoại thích đoạt quyền nhà Lý). Vấn đề hôn nhân nội tộc cũng là điều mà các sử gia cực lực phê phán là hành vi trái luân thường đạo lý trong hôn nhân các vua nhà Trần.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Quay lại câu chuyện Trần Thủ Độ vốn được sinh ra và lớn lên ở đất Liêu, thế nên văn hoá tập tục du mục của Mông Cổ rất có thể đã ăn sâu trong nhận thức, trong quan điểm, lối sống của ông. Theo tập quán của người Mông Cổ, kết hôn trong nội tộc là chuyện bình thường. Hơn nữa phong tục hôn nhân Mông Cổ xem người vợ chỉ như “tài sản” của chồng. Điều này có nghĩa rằng khi ông chồng chết đi thì người vợ cũng thuộc về người thừa kế tài sản của ông ta, lúc này người thê thiếp sẽ phải làm vợ của anh/em chồng/con chồng/cháu chồng. Và bởi thê thiếp như tài sản nên đàn ông Mông Cổ cũng được quyền tặng vợ cho người khác (Thành Cát Tư Hãn từng hào phóng đem phi tần trong hậu cung của mình tặng cho tướng soái). Có khả năng do lớn lên trên thảo nguyên, chứng kiến đời sống người Liêu như vậy mà quan điểm về hôn nhân của Trần Thủ Độ khác biệt, trái hẳn với phong tục Đại Việt bấy giờ. Có lẽ cũng bởi vậy mà sau này ông ấy bất chấp đạo lý lập mưu ép vua Trần Thái Tông làm việc trái luân thường, lấy vợ cướp con của anh trai, khiến anh vua là Trần Liễu không chịu nổi bức bách mà kéo quân làm loạn ở sông Cái năm 1237.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy rằng chủ trương kết hôn nội tộc được các vua thời đầu Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông nghiêm chỉnh tuân theo và đã sản sinh cho họ Trần những vị minh quân thần tướng tài năng, song cũng đã gây ra những vấn đề về di truyền nối dõi ở các đời sau. Tới thời vua Trần Anh Tông thì Bảo Từ hoàng hậu (chính thất đồng thời là em họ con chú vua) mấy lần sinh con trai đều đoản mệnh, người con trai duy nhất còn sống tới tuổi trưởng thành là thái tử Trần Mạnh (tức vua Trần Minh Tông) thì do Huy Tư hoàng phi (Chiêu Hiến quận chúa, họ hàng xa với vua) sinh ra. Tới vua Trần Minh Tông thì các con trai do Lệ Thánh hoàng hậu (chính thất đồng thời là em họ con chú vua) đều tuyệt tự (đích tử Trần Nguyên Dục và vua Trần Dụ Tông), các con trai nối nghiệp vua là Trần Hiến Tông (trước Trần Dụ Tông), Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông đều do hai thứ phi họ Lê sinh ra. Đến cuối thời, nhà Trần rốt cuộc cũng không thể tránh khỏi nạn ngoại thích tiếm quyền khi Hồ Quý Ly (trước là Lê Quý Ly, cháu họ gọi Minh Từ thái phi mẹ hai vua Trần Hiến Tông và Trần Nghệ Tông bằng cô) từng bước soán quyền, phế vua, cướp ngôi họ Trần.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>Công thần</b><b> và Quyền thần</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Thủ Độ là công thần bậc nhất trong sự nghiệp khai mở Trần triều là điều hậu nhân bao đời đều công nhận. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn dài để về Trần Thủ Độ :<i> “Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông khóc mà nói rằng:&nbsp;"Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?". Thái Tông lập tức lệnh xe ngựa đến dinh Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đem theo và nói hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ biết. Thủ Độ trả lời:&nbsp;"Đúng như những lời hắn nói". Rồi lấy ngay tiền lụa thưởng cho người ấy.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Qua đoạn sử ngắn đã cho thấy bản thân vị Thái sư cũng thừa nhận rằng quả đúng ông quyền át vua. Người viết mạo muội suy đoán sự việc trên xảy ra ở thời điểm Thái Tổ Trần Thừa đã qua đời, Trần Thái Tông tự mình chấp chính ở tuổi 15,16, khi đó Trần Thủ Độ là Thái sư phụ chính. Trần Thủ Độ không chỉ là công thần khai quốc, đại thần phó trợ mà ông cũng là họ hàng thân thích, là chú họ kiêm cả vai cha vợ vua (là cha dượng cả 2 hoàng hậu của Thái Tông) thế nên trong mắt bậc cha chú, con cháu có lớn vẫn chỉ là đứa trẻ. Bởi ông đã trải bao chinh chiến, đã thấm thía họ Trần gian nan thế nào, vất vả ra sao, đổ bao xương máu, mất mát những gì để giành được ngôi báu, bởi nhận uỷ thác từ Thái Tổ Trần Thừa và cả dòng họ Trần nên với ông điều quan trọng nhất là cơ nghiệp gia tộc, là giữ vững ngôi báu. Vì thế ông ấy sẵn sàng bất chấp tất cả, yêu cầu khắt khe, sẵn sàng thẳng tay dạy dỗ và cả trừng trị những đứa cháu miễn đạt được mục tiêu bảo toàn lợi ích gia tộc. Lúc Thái Tổ Trần Thừa còn tại vị, Trần Thủ Độ chỉ đảm nhận vai trò võ tướng sa trường đánh Bắc dẹp Đông. Khi Thượng Hoàng qua đời, ông là trụ cột trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và cũng nhúng tay luôn vào chuyện hậu cung, hậu duệ của vua Trần Thái Tông. Từ mẩu chuyện nhỏ ở trên, hành động vua Trần Thái Tông đưa luôn người đàn hặc (luận tội) tới gặp Thái sư, một mặt cho thấy lòng tin của vua với ông song ở một khía cạnh khác cũng có thể là vị vua trẻ đang thăm dò thái độ ông chú, biết đâu là bao lâu mới có người dám nói ra điều vua muốn bày tỏ. Lật lại các sự kiện trước đó, năm 1234 vua Trần Thái Tông từng phong cho anh trai Trần Liễu tước Hiển hoàng phụ chính, nhưng chỉ trong vòng 3 năm Trần Liễu đã thảm bại dưới tay Thái sư trên chính trường đến nỗi suýt mất cả mạng. Vua cũng từng muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc vương làm tể tướng, nhưng Thủ Độ gàn:&nbsp;<i>"An Quốc là anh thần, nếu cho giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử. Nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra làm sao?"</i> vua bèn thôi. Có lẽ vị vua trẻ đã từng nhiều lần tìm cách, tìm người làm đối trọng cân bằng quyền lực với Trần Thủ Độ nhưng không thành công.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy Trần Thủ Độ át quyền vua song ông lại không có lòng tư lợi hay ý đồ soán vị, ông một lòng tận tuỵ phò tá Trần Thái Tông. Trong sự biến năm 1237, chính Trần Thủ Độ từng nhận <i>"Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?" </i>Lòng trung thành của ông là nền tảng vững chắc giúp vua gây dựng Đại Việt vững vàng, thịnh trị sau loạn ly cuối thời Lý. Trong cuộc kháng chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất năm 1257, nhờ kinh nghiệm thưở nhỏ hiểu lối sống dân du mục thường đánh nhanh thắng nhanh nhưng bất lợi khi phải chiến đấu dài ngày, Thái sư Trần Thủ Độ đưa ra kế “thanh dã” (vườn không nhà trống) đã phát huy tác dụng làm tiêu hao sức địch, tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu. Vào thời điểm quân nhà Trần thất thế, phải lui quân về sông Thiên Mạc, khi được vua hỏi về kế sách, Thủ Độ khẳng khái tâu: <i>"Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo".</i> Nhờ khí khái kiên cường, tinh thần bất khuất, kế sách vẹn toàn, vua quan nhà Trần tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đánh bại quân Mông Cổ, khiến chúng phải thoái chạy về nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thật đúng với lời Huệ Túc phu nhân khi luận giải lá số tử vi của Trần Thủ Độ<i>: “Tiên sinh hành sự bất chấp luật pháp, chẳng kể đạo lý. Có lúc tiên sinh thành người nửa chính, nửa tà, nửa ma, nửa quỷ. Tiểu nữ e muôn nghìn năm sau còn bị dị nghị. Nhưng… dù ai dị nghị, thì chỉ dị nghị về cá nhân tiên sinh. Còn đối với đất nước, quả thật công lao cũng như tấm lòng của tiên sinh sáng như trăng rằm, không ai chê trách được.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Khi trưởng thành, vua Trần Thái Tông ngày càng thể hiện rõ tài năng đức độ, sự anh minh, sáng suốt của mình và dần làm chủ chính sự. Thái sư Trần Thủ Độ khi lớn tuổi cũng không tham quyền cố vị mà tự lui về sau để nhà vua và thế hệ hậu duệ họ Trần kế thừa cơ&nbsp; nghiệp, gánh vác cơ đồ. Năm 1264 dưới thời vua Trần Thánh Tông, mùa xuân, tháng Giêng, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, hưởng thọ 71 tuổi. Ghi nhận công lao to lớn của ông, Trần Thủ Độ được Thượng hoàng Trần Thái Tông truy tặng thụy hiệu là Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại vương. Theo những gì lưu lại, ông chỉ có một người con trai là Nhân Huệ hầu Trần Phó Duyệt, cháu nội của ông có danh tướng lắm tài nhiều tật Trần Khánh Dư (người cháu này cũng bá đạo trên từng hạt gạo chẳng kém ông nội) và Trần Văn Lộng (sau bị đổi thành Mai Văn Lộng do đã đầu hàng giặc Nguyên vào năm 1285).</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc đời thăng trầm, lắm thị phi nhiều dị nghị của Thái sư Trần Thủ Độ chung quy lại là một lòng dốc sức vì cơ nghiệp họ Trần, một dạ trung thành với vua Trần Thái Tông, một tình yêu chung thuỷ với Linh Từ Quốc mẫu và một nhà quân sự tài năng, một đại thần thanh liêm đức độ hết lòng vì xã tắc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-13-tinh-quoc-dai-vuong-tran-quoc-khang-boi-tinh-ma-an"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 13 Tĩnh Quốc Đại Vương Trần Quốc Khang: Bởi "tĩnh" Mà "an"</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Có thể nói muôn vị nhân gian, ngọt ngào, mặn chát, đắng ngắt, cay nồng, thơm bùi, ân oán tình thù, tình yêu và gia tộc, chiến tranh và hoà bình, danh lợi phù hoa và thong dong tự tại, cuộc đời của Thái Tông Trần Cảnh đều nếm trải. Trần Thái Tông được ca ngợi là ông vua thiền sư xuất sắc của Đại Việt đã có công kiến tạo nên thế hệ kiệt xuất tiếp theo của dòng máu Đông A anh hùng.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/d3b62ffe47f3d53a367787a618e0855a4c8113b9f9b4e773478240b734aa2113.jpg"alt="5. Thai Tong Tran Canh muon vi nhan gian 5718.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>(Nguồn ảnh: Comet Withhouse)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>NGỌT… </b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong số những đứa trẻ Hoàng tộc họ Lý và Trần gia lúc bấy giờ, có lẽ Trần Cảnh là đứa trẻ may mắn nhất. Sinh ra trong gia tộc hào trưởng, không phải lớn lên trong thời buổi loạn lạc nhất như người anh cả Trần Liễu, lúc Trần Cảnh chào đời (tháng 7 năm 1218 âm lịch), họ Trần đã có vị thế vững chắc trong triều đình của vua Lý Huệ Tông. Khi người chú Trần Tự Khánh qua đời (năm 1223), cha của Cảnh là Trần Thừa trở thành người đứng đầu gia tộc, Trần Thừa cùng với Trần Thủ Độ nắm mọi quyền bính trong triều.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái nhỏ là Chiêu Thánh công chúa để xuất gia (năm 1224) đánh dấu bước ngoặt tuổi thơ của cậu bé 7 tuổi. Thay vì như toan tính của họ Trần đã sắp đặt để vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con rể trưởng Phụng Càn Vương Trần Liễu, lúc này 15 tuổi, là phò mã của trưởng công chúa Thuận Thiên, thì vua Huệ Tông lại đảo lộn Càn Khôn và nhường ngôi cho con gái út. Chiêu Thánh lên ngôi tức Nữ đế Lý Chiêu Hoàng, họ Trần nhanh chóng thay đổi kế sách bằng cách đưa một loạt nam nhi con cháu họ Trần vào cung để hầu hạ Nữ đế. Trong số đó, Trần Cảnh được Trần Thủ Độ tiến cử làm Chi hậu chính chi ứng cục hầu hạ kề cận Chiêu Hoàng. Trần Cảnh cùng tuổi với nữ đế, là anh em họ gần (Trần Cảnh là cháu gọi thái hậu Trần Thị Dung mẹ của Chiêu Hoàng là cô ruột) lại có bản tính hiền lành nên được Chiêu Hoàng quý mến, cùng chơi. Họ Trần đã lợi dụng điều này để dàn xếp hôn nhân giữa 2 đứa trẻ 7 tuổi Chiêu Hoàng và Trần Cảnh. Tới cuối năm 1225, họ Trần hoàn tất bước đi cuối cùng: Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng, Trần Cảnh trở thành vị vua đầu tiên khai mở triều Trần, tự xưng là Thiện Hoàng, sau đổi thành Văn Hoàng tức Trần Thái Tông. Trần Thái Tông lên ngôi tuổi còn thơ ấu (8 tuổi), sau khi Trần Thủ Độ bức tử nhạc phụ vua là Thượng hoàng Lý Huệ Tông, cha vua là Trần Thừa được tôn làm Thượng hoàng, nhiếp chính cho con trai, gia đình Trần Thừa đường đường chính chính trở thành chủ nhân mới của Hoàng cung.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuổi thơ của Trần Cảnh có thể nói là yên bình, may mắn kề cận Nữ đế, một bước lên mây trở thành tân Hoàng đế. Ngồi lên ngai vàng từ tuổi ấu thơ song Trần Thái Tông được cha nhiếp chính, có chú nhất mực trung thành, từng bước ổn định triều chính, có được lòng dân, xây nền vững chắc cho cơ nghiệp họ Trần. Tuy rằng Trần Cảnh kết hôn rất sớm, khi mới chỉ là đứa trẻ 7 tuổi, song ông và Chiêu Thánh hoàng hậu nhỏ là thanh mai trúc mã, lớn lên là phu thê hoà hảo. Có thể nói từ tuổi còn rất trẻ, Trần Thái Tông đã có mọi thứ trong tay, có ngai vàng được danh chính ngôn thuận từ vợ nhường ngôi, có cơ nghiệp vững vàng nhờ công sức dẹp loạn bình thiên hạ của Trần gia, có tình yêu ngọt ngào và cuộc hôn nhân hạnh phúc với Chiêu Thánh hoàng hậu. Thế nhưng những tháng ngày bình yên lại chẳng kéo dài mãi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>MẶN…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mặn là vị của nước mắt. Biến cố đau thương đầu tiên đến với Trần Cảnh là sự ra đi của người mẹ, Thái thượng hoàng hậu Lê Thị Thái mất năm 1230. Vậy là lúc 12 tuổi, Trần Cảnh cũng trải qua nỗi đau mất người thân như người vợ Chiêu Thánh của mình (Chiêu Thánh mất cha khi 8 tuổi). Năm 15 tuổi, Trần Cảnh và Chiêu Thánh lại chịu nỗi đau mất đi đứa con đầu lòng Hoàng thái tử Trần Trịnh (năm 1233). Ngay sau đó Thái thượng hoàng Trần Thừa cũng qua đời (tháng 2 năm 1234). Chỉ trong vòng 5 năm, Trần Cảnh liên tiếp mất đi những người thân yêu nhất. Những biến cố đó hẳn đã để lại khoảng trống mênh mông trong tâm hồn vị quân vương trẻ tuổi. Sau ngày Thượng hoàng mất, Trần Thái Tông có ý cất nhắc, dựa vào người anh trai Trần Liễu, phong cho Trần Liễu là Hiển Hoàng phụ chính bên cạnh người chú họ là Thái sư Trần Thủ Độ. Thế nhưng Trần Liễu và Trần Thủ Độ có vẻ không hoà hợp mà trở thành 2 thế lực đối đầu. Năm 1236 xảy ra sự biến cung Lệ Thiên, Trần Liễu bị kết án cưỡng gian cung nhân cũ Lý triều và bị giáng xuống làm Hoài vương, dần mất quyền lực trên chính trường. Từ đó, Thái sư Trần Thủ Độ trở thành người trụ cột quyền uy nhất trong triều. Với vị thế của mình, cùng với vợ là Linh Từ quốc mẫu, Trần thái sư cũng thẳng tay can thiệp vào chuyện hậu cung.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>ĐẮNG…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua đã lâu không có con, Trần Thủ Độ lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên công chúa, vợ của Trần Liễu đồng thời là chị gái của Chiêu Thánh đang mang thai 3 tháng làm hoàng hậu để lấy đứa trẻ mà nhờ cậy về sau. Trần Liễu ôm hận nỗi nhục bị cướp vợ cướp con, họp quân nổi loạn ở sông Cái. Trước tình cảnh éo le này, với bản tính hiền lành và sự tôn trọng người chú, Trần Thái Tông vô cùng khó xử. <i>"Trẫm còn thơ ấu vội mất hai thân, bơ vơ đứng trên sĩ dân không chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế vương đời trước, thạnh suy không thường, cho nên Trẫm đến núi này chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác"</i>, lời bày tỏ của Trần Cảnh khi bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử xin tu theo thiền sư Đạo Viên đã cho thấy sự bất lực tột cùng của đấng quân vương. Trước sự sắp đặt thế cục bất nhân bất nghĩa mà ông chú đưa ra cho mình, nhà vua những mong bỏ lại tất cả, rời xa sự đời. Thế nhưng, nhà vua có chạy đường trời cũng không thoát khỏi bàn tay ông chú Trần Thủ Độ. Trước tuyên bố “vua ở đâu kinh sư ở đó”, để tránh phá núi Yên Tử cùng lời phân tích của sư Đạo Viên <i>"Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm</i>”, vua Trần Thái Tông buộc phải xuống núi trở lại kinh sư và làm theo sắp đặt của ông chú. Nhà vua phải phế lập Hoàng hậu, Thuận Thiên trở thành Hoàng hậu của em chồng đồng thời là em rể, Trần Liễu phải an phận làm An Sinh vương mất hết quân đội, còn hoàng hậu bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa, giam lỏng trong hậu cung. Không ai rõ Trần Thủ Độ đã thuyết phục vua như thế nào, đã mang những ai những gì ra làm vật trao đổi với nhà vua, nhưng một quân vương ôn nhu, thiện lương như Trần Cảnh buộc phải chấp nhận chịu lời gièm pha của thiên hạ, chê trách của hậu nhân “phong hoá hủ bại”, “cướp vợ giành con của anh”. Rất có thể đó là lựa chọn duy nhất của vua để giữ mạng cho người anh Trần Liễu, bảo vệ tính mạng của người vợ Chiêu Thánh mà không làm Đại Việt lâm vào cảnh chiến loạn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử có chép từ sau biến cố đó, vua Trần Thái Tông rất chuyên tâm tu tập theo Thiền tông Phật giáo. Có lẽ nghiên cứu, ứng dụng triết lý từ kinh Phật, là cách giúp cho vua lý giải sự đời, ngậm đắng nuốt cay, lấy lại tâm quân bình để trông coi chính sự, làm tốt vai trò quân chủ mà người vợ trao lại, giữ gìn ngai vàng mà mấy thế hệ ông cha đã đổ máu hy sinh để mang về cho gia tộc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>CAY…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cay vốn không phải là một vị cơ bản thực phẩm mang đến, mà là cảm giác nóng của cơ thể khi bị kích thích. Vị cay là chất xúc tác khiến cho món ăn thêm hấp dẫn, khiến người thưởng thức thêm phấn khích, ngất ngây, nhưng cũng có thể làm người đó bị bỏng rát, đau đớn khi sử dụng quá mức. Dưới triều đại của Trần Thái Tông, nhiều sử gia nhìn nhận thái sư Trần Thủ Độ chính là quyền thần, nhưng ông ấy là quyền thần được vua trọng dụng và hết mực tin tưởng. Trần Thủ Độ “quyền át vua” song ông dùng quyền hành đó với cái tâm vì cơ nghiệp họ Trần và một mực trung thành với Thái Tông. Sau hai sự biến năm Bính Thân (1236) phế Hiển hoàng rồi năm Đinh Đậu (1237) phế lập Hoàng hậu, Trần Thái Tông đã chấp nhận số phận dựa vào ông chú. Theo thời gian, Trần Thái Tông khẳng định được tài năng đức độ, sự anh minh, sáng suốt của mình và dần dần tự chấp chính. Thái sư Trần Thủ Độ khi lớn tuổi cũng lui về sau để nhà vua và thế hệ con cháu họ Trần làm chủ, tiếp tục gánh vác cơ đồ. Thời gian trôi qua, chuyện cũ cũng lùi dần vào dĩ vãng trong miệng lưỡi thế gian. 33 năm ngồi trên ngai vàng, Trần Thái Tông cùng với Hoàng tộc họ Trần và triều đình đã mang lại thái bình thịnh trị cho Đại Việt sau thời kỳ loạn ly, suy sụp trầm trọng cuối thời nhà Lý. Bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi nhận về Trần Thái Tông: <i>“Vua khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ Nhà Trần thực to lớn vậy.”</i> Vua vừa biết kế thừa phát huy những tinh hoa trong chế độ cai trị thời nhà Lý để lại, vừa suy tư cải tổ những điều bất cập, không còn phù hợp, không có lợi cho dân cho nước. Vua tiếp tục tôn sùng, học tập ứng dụng theo đạo Phật, vừa đổi mới, phát huy thế mạnh của Nho giáo, Đạo giáo vào giáo dục và trị quốc. Tinh thần “tam giáo đồng nguyên” là biểu hiện đặc sắc của nền văn hoá Đại Việt dưới thời Trần, giúp tạo nên những con người thời đại Đông A hào sảng, phóng khoáng, tài năng và anh hùng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Xuất thân từ con nhà võ, vua Trần Thái Tông rất chú trọng xây dựng quân đội Đại Việt vững vàng. Không chỉ cử tướng tài, vua còn tự mình thân chinh dẹp Bắc bình Chiêm (những năm 1240, 1241, 1252). Năm 1257 và 1258, dưới sự lãnh đạo của vua Trần Thái Tông cùng tài thao lược của Thái sư và các tướng giỏi, quyết tâm của toàn thể quân dân và kế sách vườn không nhà trống, vó ngựa chinh phạt thế giới của quân Mông Cổ đã buộc phải dừng lại tại kinh thành Thăng Long và rút quân về mà không hề cướp phá. Trải qua những mất mát, tổn thất nặng nề mà không hề nản chí, quân dân nhà Trần đã lật ngược thế trận, đánh cho quân giặc buộc phải sớm kết thúc chiến tranh, tướng giặc là Triệt Triệt Đô bị trách phạt phải uống thuốc độc tự vẫn. Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất toàn thắng, Trần Thái Tông dẫn đoàn quân Sát Thát ca khúc khải hoàn ngay trước thềm Tết Nguyên đán năm 1258.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>BÙI…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ đã mang đến nhiều bài học và kinh nghiệm trận mạc cho quan quân nhà Trần cũng như ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và những quyết định tiếp theo của vua Trần Thái Tông. Với phương châm bảo toàn sức dân, phải tham chiến là hạ sách, vua giữ chủ trương hoà hiếu với cả Nam Tống và quân Mông Cổ, hoà hoả bang giao nhưng cứng rắn không nhượng bộ trước những yêu sách nhũng nhiễu của quân Mông và nhà Nguyên về sau. Đồng thời vua dưỡng sức dân và nhanh chóng đào tạo thế hệ kế thừa đưa các quan văn, võ tướng trẻ và tài năng gánh vác việc nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày mùng một Tết năm 1258, Trần Thái Tông tổ chức ngày hội khao quân, định công, phạt tội cho quan tướng tại Thăng Long. Cũng trong ngày này, vua ban cho công thần Lê Tần tên Lê Phụ Trần, lãnh chức Nhập nội phán thủ, tước Bảo Văn hầu và gả vợ cũ vua là Chiêu Thánh công chúa cho Lê Tần. Quyết định này một lần nữa dấy trên những lời chê trách trong dân gian “Trách người quân tử bạc tình, Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”. Thế nhưng những gì diễn ra sau đó đã cho thấy đây là quyết định mang lại cái kết có hậu cho nhiều người. Sử chép lại Chiêu Thánh công chúa sinh được hai người con, con trai là Thượng vị hầu Lê Tông, sau này được ban quốc tính, chính là danh tướng Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng, con gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê sau được gả cho Trạng nguyên Trần Cố. Người viết trộm nghĩ, để con cháu họ Lê được mang quốc tính họ Trần và phong tước hầu, vương, công chúa thì rất có thể Trần Thái Tông (lúc này là Thượng hoàng) đã nhận hai người làm nghĩa tử, nghĩa nữ. Cùng năm, ngày 24 tháng 2 âm lịch, Trần Thái Tông truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Hoảng tức vua Trần Thánh Tông và lui về làm Thái thượng hoàng. Sau khi nhường ngôi, Thượng hoàng thường ở phủ Thiên Trường (Nam Định) hoặc am Thái Vi thuộc hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), khi có việc mới trở về kinh sư. Ở tuổi 40 đương sung sức, vua Trần Thái Tông chọn rút về vai trò Thái thượng hoàng, để đích tử Trần Hoảng lúc này 18 tuổi nối ngôi, tức vua Trần Thánh Tông. Từ đó Ngài vừa dõi theo, chỉ bảo cho tân đế, vừa tự do thực hiện chí khí ngao du và tu học thiền tập. Trần Thái Tông là vị Thượng hoàng hiếm có trong lịch sử mà khi còn tại vị Hoàng tộc có cả Thái thượng hoàng, Hoàng đế (Trần Thánh Tông), Hoàng thái tử (Trần Khâm tức Trần Nhân Tông sinh năm 1258) và Hoàng thái tôn (Trần Thuyên tức Trần Anh Tông sinh năm 1276). <b></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vào ngày 1 tháng 4 âm lịch năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông qua đời tại điện Vạn Thọ (Thăng Long) hưởng thọ 60 tuổi. Một năm sau đó, tháng 3 âm lịch năm 1278 Chiêu Thánh công chúa Lý Thiên Hinh cũng qua đời, thọ 61 tuổi. Câu chuyện sóng gió hôn nhân của bốn người anh chị em một nhà khép lại từ đây. <b></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể nói muôn vị nhân gian, ngọt ngào, mặn chát, đắng ngắt, cay nồng, thơm bùi, ân oán tình thù, tình yêu và gia tộc, chiến tranh và hoà bình, danh lợi phù hoa và thong dong tự tại, cuộc đời của Thái Tông Trần Cảnh đều nếm trải. Đón nhận những may mắn, thuận lợi và phát huy lợi thế đó; chấp nhận nghịch cảnh, những điều bất như ý và nhẫn nhịn đi qua vì mục đích lớn hơn; tôn trọng, lắng nghe những bậc cha chú đi trước và yêu thương tin tưởng, trao quyền cho thế hệ tiếp theo; ở ngôi chí tôn mà vừa nghiêm túc chuyên cần việc trị quốc, vừa chuyên tâm không trễ nải ước mong học Đạo, Trần Thái Tông được ca ngợi là ông vua thiền sư xuất sắc của Đại Việt đã có công kiến tạo nên thế hệ kiệt xuất tiếp theo của dòng máu Đông A anh hùng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-6-kham-minh-dai-vuong-tran-lieu-tu-phung-can-toi-an-sinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 6 Khâm Minh Đại Vương Trần Liễu: Từ Phụng Càn Tới An Sinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>