Kính Tu bắt đầu lên kế hoạch để một lần xử chết Hậu Nghệ. Chàng đứng ra thương lượng với các địa phương và lấy hơn 10 mẫu ruộng vua ban đổi cho các chủ đất để họ cho phép xây một con ngòi xuyên qua. Con ngòi này vừa để giúp dân dẫn nước mùa mưa lũ, vừa hay hướng tới chỗ Hậu Nghệ để nhấn chìm hắn một thể.
Chưa dừng ở đó, Kính Tu còn cho làm những hình nộm bằng giấy được nhuộm đỏ vàng cùng với hình đầu rồng bên trên, bởi lẽ, rồng và hổ vốn chẳng ưa gì nhau, và Hậu Nghệ cũng sợ ánh sáng, vậy thì những thứ họa tiết hoa văn trông giống như lửa cũng đủ để hắn cảm thấy sợ hãi. Bên cạnh đó, Kính Tu còn cho làm những cái đèn hình trụ lục giác gọi là đèn kéo quân, trên thân đèn vẽ lại hình ảnh những chiến sĩ đang cưỡi ngựa lao tới, trên cuống đèn sẽ có một trục hình tròn với các cánh quạt nhét vào giữa, khi lửa bên trong đèn được thắp lên, nhiệt lượng tỏa ra sẽ làm đèn xoay vòng vòng tạo cảm giác như thực sự có những chiến sĩ đang thúc ngựa chạy tới.
Sau khi chuẩn bị xong xuôi, Kính Tu liền dâng sớ xin vua cho điều quân đi đánh quái vật. Tuy Kính Tu đã luôn dốc lòng phò tá, nhưng dù sao đất nước cũng mới chỉ ổn định trở lại, quân đội là một điều vô cùng quý giá, biết phải mất bao nhiêu người thì mới có thể tiêu diệt được con quái vật kia? Kính Tu cũng nhìn ra được trăn trở ấy của nhà vua, vậy nên chàng đã xin đổi chức quan này của mình chỉ để xin ba mươi người lính đi theo cùng. Nhà vua tuy rất tiếc khi mất một vị quan liêm chính, trách nhiệm như Kính Tu, nhưng đứng trước những lời thì thầm bàn tán cùng sự ủng hộ của lũ tham quan thì cũng chỉ đành gật đầu chấp nhận.
Kính Tu đúng như lời hứa, chỉ mang theo vỏn vẹn ba mươi người lính, thậm chí cả giai nhân trong nhà cũng không mang theo. Quay về tới làng Đỗ, Kính Tu bắt đầu vạch chiến lược cho các tướng sĩ. Theo như kế hoạch Kính Tu vạch ra, ban ngày, các tướng sĩ sẽ cùng nhau đào 108 cái hố sâu chừng mười thước, bố trí theo trận đồ bát quái, thế trận được gọi là Cửu Cung Bát Quái Trận, dưới mỗi cái hố đều sẽ sắp sẵn chông nhọn vót bằng tre, bên trong mỗi ống tre còn được bỏ sẵn một chút than lửa kèm bụi kim loại bên trong. Việc này phải được hoàn tất trong bảy ngày, vì bảy ngày sau sẽ là thời điểm thuận lợi nhất để kế hoạch tiến hành. Nhờ vào sự chỉ huy tài tình của Kính Tu, cũng như phân bố người và thời gian nghỉ ngơi hợp lý, chỉ sau năm ngày những cái bẫy đã được đào xong. Dù vậy Kính Tu vẫn không hề nóng vội, chàng kể cho mọi người nghe tóm tắt mối nhân duyên chồng chéo giữa mình và Hậu Nghệ cho các tướng sĩ nghe trong khi chờ đợi, để họ hiểu rằng đối đầu với một kẻ như Hậu Nghệ, nóng vội là điều tất phải tránh. Chập tối ngày thứ bảy, Kính Tu bắt đầu cho quân lính nhanh chóng treo đèn kéo quân ở những vị trí trọng yếu ngoài bìa rừng, khi mặt trời vừa tắt thì ra hiệu cho quân đội khua chiêng múa trống đánh động. Hậu Nghệ đang nằm trên núi xương người thì giật mình bởi tiếng động, nhìn xung quanh, hắn thấy những đốm lửa chập chờn ngoài bìa rừng khiến tâm trạng bắt đầu khó chịu. Cùng lúc đó, chính bản thân Kính Tu cầm theo những hình nộm giấy, mặc bộ đồ giống như những hình nộm, tiến sâu vào khu rừng, đi mười ba bước lại cắm một hình nộm trên. Tới khi chỉ còn cách Hậu Nghệ hai mươi bước thì đánh động, giơ cao lá cờ diệt hổ mà trước đây khi chàng còn nông nổi từng dùng để khiêu khích Hậu Nghệ.
Hậu Nghệ thấy được lá cờ năm xưa, biết chắc chắn kẻ đứng trước mặt mình chính là kẻ mình vẫn luôn tìm bấy lâu nay liền không nghĩ ngợi gì mà nhảy xồ tới. Kính Tu chỉ chờ có thế, vị trí chàng đứng chính là chỗ thoáng đãng nhất trong khu rừng, không bị cây che phủ, lại vừa hay có trăng lên đỉnh vào đúng vị trí đó, Kính Tu lôi chiếc quạt mo ra, phản chiếu ánh trăng vào mắt của Hậu Nghệ khiến hắn lập tức bị chói mắt mà mất đi phương hướng. Kính Tu lúc này chỉ cần né nhẹ người là có thể thoát khỏi cú vồ của Hậu Nghệ. Còn Hậu Nghệ sau khi vồ trượt lại lạc rơi vào trúng thiên la địa võng mà Kính Tu bày sẵn. Xung quanh hắn toàn là những hình nhân giấy trông giống hệt Kính Tu, trời thì lại tối khiến gã chẳng thể nào phân biệt nổi, chỉ còn cách cào bừa khắp nơi. Hậu Nghệ lao tới tung trảo đập vỡ những cái cây có treo hình nhân giấy. Cây đổ mỗi lúc một nhiều mà vẫn chẳng đánh trúng kẻ mà hắn muốn. Chẳng mấy chốc, cả khu rừng ngổn ngang những thân cây đổ. Hậu Nghệ đâu có biết rằng lúc này Kính Tu đã thay một bộ đồ tối màu cực kỳ ít nổi bật để trà trộn trong đêm tối, cùng với những quân lính lén bôi lên những cái cây bị đổ phần nước đường đã chuẩn bị trước. Hậu Nghệ không biết gì, cứ nhảy lên những cái cây đổ mà gầm gừ giận giữ. Bất chợt, hắn cảm thấy bàn chân đau nhức. Nhìn xuống, Hậu Nghệ thấy vô số những con kiến lửa đang bắt đầu bò lên chân hắn mà cắn. Hậu Nghệ đau đớn chạy loạn. Chính lúc này, Kính Tu ra hiệu cho quân lính khua chiêng đánh trống dữ dội hơn nữa. Hậu Nghệ nhìn thấy những chiếc đèn kéo quân cùng với tiếng trống trận thì cứ ngỡ rằng cả một đoàn quân nghìn người đang kéo đến liền sợ hãi bỏ chạy ra khỏi rừng.
Mà hắn đâu hay biết rằng đó là việc ngu xuẩn nhất hắn làm từ trước đến nay. Hậu Nghệ vừa ra khỏi rừng thì liền lập tức rơi xuống hố mà Kính Tu đã cho đào sẵn. Quả như Kính Tu dự đoán, những cái chông tre hoàn toàn không thể làm đả thương được thân thể mình đồng da sắt của Hậu Nghệ. Nhưng do cơ thể của Hậu Nghệ đã bịt kín những ống tre trong khi than lửa vẫn đang cháy, khiến cho các ống tre bị nén khí lại rồi phát nổ, khiến Hậu Nghệ càng sợ hãi do những tiếng nổ lớn đôm đốp phát ra, lớp thịt bên dưới da cũng cảm thấy như đang bị thiêu rụi. Tre nổ khiến Hậu Nghệ bị bắn ra ngoài, mà đâu đã thoát, ngay sau khi bị bắn ra thì hắn lại rơi vào một cái hố khác được sắp đặt trước. Cứ như vậy, Hậu Nghệ bị nổ như bỏng hết 108 cái hố, tạo thành những vết vằn trên bộ lông của hắn. Tới khi cả 108 cái hố nổ hết, Kính Tu cho người xếp thành đội ngũ xung quanh, còn bản thân thì cẩn thận tiến tới. Thấy Hậu Nghệ đã trở lại lốt người, nằm như sắp lả đi, chàng mới thở phào nhẹ nhõm rồi nói:
“Vậy là… Mối nghiệt duyên của chúng ta kết thúc được rồi”
“Ngươi còn cái bẫy nào thì đưa ra hết đi”
Kính Tu nhíu mày:
“Thú thực. Đó là toàn bộ vốn liếng của ta rồi đấy. Ta đã đánh cược là từng này sẽ đủ để hạ ngươi. Nếu còn không đủ nữa thì ta cũng đành chịu”
“Ngươi mà cũng có lúc hết trò sao?”
Kính Tu ngồi bệt xuống, thả chân trên miệng hố:
“Thật. Ta cũng đã hết cái thời trẻ trâu nông nổi rồi, giờ không còn nghĩ được mấy trò chơi khăm như xưa nữa”
“Tốt… Tốt”
“Hả? Cái gì tốt cơ?”
“Tốt nhất là ngươi đưa cái mạng ngươi ra đây!”
Hậu Nghệ nói rồi lấy ra trong áo một mẩu rễ cây bé cỡ một cái móng tay út.
“Ta đã để dành mẩu rễ này lâu quá rồi. Ta đã chờ ngày này lâu quá rồi. Nộp mạng ra đây!”
Thấy tình hình chuyển biến xấu, Kính Tu liền vội vàng quay người đứng dậy, ra lệnh cho binh sĩ sơ tán. Nhưng nào đâu có kịp. Hậu Nghệ vừa ném mẩu rễ cây vào nhai, hắn lập tức biến trở lại thành bạch hổ, thậm chí còn to gấp ba lần trước đây, trên lưng còn mặc thêm đôi cánh lớn của đại bàng, đuôi và trán hắn, cùng với bốn bàn chân đều bốc lên một ngọn lửa màu tím hắc ám quỷ dị. Một lần đập cánh là đã đủ để Hậu Nghệ thoát ra khỏi hố bẫy. Ngay khi hắn vừa bay lên trên miệng hố, Hậu Nghệ không còn tâm lý vờn Kính Tu nữa, hắn toàn lực nhảy vồ tới. Liền ngay lập tức, cả ba mươi người lính cùng lúc lao tới chắn trước mặt Kính Tu. Phải cần tới ba mươi mạng người chỉ để cản một lần vồ ấy của Hậu Nghệ. Chỉ trong chớp mắt, Kính Tu, người tự tin rằng sẽ không để ai phải chết nữa, chứng kiến cả ba mươi người lính đầy nhiệt huyết, tốt bụng và ngay thẳng bị xé làm đôi ngay trước mắt. Vuốt của Hậu Nghệ cào sượt qua, chỉ cần thêm nửa tấc nữa là có thể cào mù mắt Kính Tu rồi.
Chính cảm giác tội lỗi lẫn sợ hãi đến tột độ trước khi chết ấy đã thúc đẩy tối đa tâm trí của Kính Tu. Kính Tu lập tức hình dung toàn bộ các trận đồ, những yếu điểm của những trận đồ ấy, rồi khớp chúng theo hình dáng cơ thể người để tìm các huyệt đạo quan trọng tương ứng. Sau đó thì vận chuyển khí huyết để đả thông những yếu huyệt trên cơ thể, kích phát tiềm năng của bản thân. Chưa dừng lại ở đó, Kính Tu còn dựa vào địa hình xung quanh để tìm ra vị trí long mạch của vùng đất này, nhanh chóng đứng lên đó để cộng hưởng với sức mạnh thiên địa.Ngay sau đó, toàn thân Kính Tu rực sáng, một thứ ánh sáng màu xanh trắng nhạt, mềm mỏng nhưng mạnh mẽ, cơ thể Kính Tu bắt đầu biến đổi, trở thành một con rồng vàng dài tới hai mươi trượng. Toàn bộ cả quá trình xảy ra chỉ vỏn vẹn trong đúng một sát na.
Kính Tu sau đó liền lao thẳng vào cuốn chặt lấy Hậu Nghệ. Hậu Nghệ cũng nào đâu chịu kém cạnh, hắn dùng vuốt cào loạn để thoát khỏi sự khống chế của Kính Tu. Kính Tu dùng đuôi quật mạnh về phía Hậu Nghệ thì hắn cũng đáp trả bằng cách gặm lấy cái đuôi ấy của Kính Tu rồi quẳng ra xa. Nếu Kính Tu lao thẳng về phía Hậu Nghệ thì hắn cũng sẵn sàng dùng đầu mình mà chọi lại. Kính Tu gọi mưa bão, Hậu Nghệ gọi sấm sét, Kính Tu triệu hồi người khổng lồ từ đất đá thì Hậu Nghệ cũng gọi lên những ma cây quỷ dị. Kính Tu dùng trận đồ, tạo thế trận, thì Hậu Nghệ dùng man lực để phá vỡ toàn bộ.
Cuộc chiến long tranh hổ đấu diễn ra liên tục ba ngày ba đêm, cả hai đều đã gần như kiệt sức. Mặt trăng lúc này đã lên cao. Cả hai quyết định sẽ dồn toàn lực vào một đòn, đánh cược tất cả. Ngay khoảnh khắc trước khi cả hai đánh trúng, Hậu Nghệ thấy thấp thoáng bóng hình của Hằng Nga phía xa, điều ấy khiến hắn trong thoáng do dự. Và trong thời khắc quyết định như này, kẻ nào do dự dù chỉ một khắc, tất sẽ phải bỏ mạng. Hậu Nghệ bị đánh bay về hình dáng con người ban đầu. Nằm trên nền đất, toàn thân Hậu Nghệ bắt đầu giảm nhiệt độ nhanh chóng, hắn vẫn cố ngẩng đầu nhìn về sau lưng Kính Tu, miệng lẩm bẩm:
“Hằng Nga…”
Kính Tu nghe thấy Hậu Nghệ gọi vậy thì cũng lập tức hóa hình trở lại, hạ xuống chỗ Hậu Nghệ rồi nhìn theo hướng ánh mắt của hắn, nhưng chàng chẳng thấy hình bóng của Hằng Nga đâu. Kính Tu nói với Hậu Nghệ:
“Dù sao ngươi cũng sắp chết rồi. Nên buông bỏ hận thù với nàng ấy đi”
“Vậy ra… Ngươi thực sự có liên quan tới nàng ấy”
“Phải, nàng ấy ngủ say trong khu rừng gần quê ta. Sau khi bọn ta quen nhau, nàng ấy cũng đã kể chuyện của ngươi với nàng cho ta rồi. Dù sao cũng là lỗi do ngươi, ngươi hiểu mà phải không?”
“Phải…” Hậu Nghệ không còn cố gắng tìm kiếm bóng hình Hằng Nga nữa, hắn nằm ngửa ra nhìn thẳng về phía mặt trăng, nói:
“Thực ra, ta đã vô cùng giận dữ nàng ấy trong vòng một trăm năm sau khi rơi xuống trần thế. Nhưng rồi khi sự bình tĩnh quay trở lại, ảnh hưởng của rễ cây Bạch Hổ không còn nữa, ta đã thấy vô cùng ăn năn hối lỗi. Trong vòng năm mươi năm sau ấy, ta đã thực hành khổ tu, nhịn ăn, nằm gai nếm mật,... để quản thúc chính bản thân mình. Tiếp tục ba trăm năm sau đó, ta đi khắp thế gian để tìm thấy nàng ấy. Ba mươi năm sau đó, ta xác định mơ hồ được nàng ấy ở lục địa này, vậy nên ta đã xin phục vụ dưới trướng của hoàng đế phương Bắc, để khi đi chinh chiến khắp nơi có thể gặp được nàng. Mười sáu năm trước, ta bắt đầu cảm ứng được vị trí của nàng rõ hơn ở phương Nam nên đã dẫn quân đánh xuống đây. Dù ta biết mình chỉ đang viện cớ cho hành động của bản thân, rằng ta không thể gạt bỏ những mạng sống mà mình đã tước đoạt. Nhưng… dù tội lỗi thế nào cũng được, ta… muốn xin lỗi nàng một lần.”
“Có lẽ… Ta và ngươi giống nhau rồi. Ta cũng vì một lần lỡ tức giận với Hằng Nga mà đã khiến nàng phải bỏ đi. Ta cũng rất muốn xin lỗi nàng”
“Ha ha. Quả thật hai chúng ta có mối nhân quả phức tạp… Dù sao hơi thở của ta cũng sắp tàn rồi. Ta muốn nói cho ngươi điều cuối cùng này. Hằng Nga rất thích ăn bánh vào ngày trăng tròn như này. Ta không nhớ loại bánh đó tên là gì, nhưng nó có rất khó để làm. Một lớp bánh mỏng bên ngoài, một lớp đậu xanh bên trong, và ở giữa trung tâm thêm một viên nhân thập cẩm, tựa như trần thế được bao bọc bởi chư thiên vạn giới vậy. Hãy cố gắng… Làm nó cho nàng ăn. Và giúp ta… Xin lỗi nàng”
Vừa dứt lời, cơ thể Hậu Nghệ liền lóe sáng. Sau khi ánh sáng vụt tắt, một cái cây cổ thụ to tới mười người trưởng thành ôm không hết xuất hiện trước mặt Kính Tu. Cây cổ thụ này nhìn khá giống cây Bạch Hổ mà Hằng Nga từng tả lại cho Kính Tu. Kính Tu thử vặt lấy chiếc lá để nhai thì cảm thấy toàn thân phục hồi hoàn toàn, mọi đau nhức và vết thương trên cơ thể đều biến mất, hiệu quả thực sự thần kỳ.
Kính Tu khẽ quỳ xuống trước cây cổ thụ, nói:
“Cám ơn”
Rồi chàng ngước đầu lên mặt trăng hét lớn:
“Hằng Nga! Ta biết nàng đang ở đây! Ta biết nàng vẫn luôn dõi theo ta từ trước đến giờ! Ta biết nàng vẫn chưa thể tha thứ cho hành động của ta! Nhưng ta muốn nói là ta xin lỗi nàng! Ta cũng thay mặt Hậu Nghệ xin lỗi nàng! Bọn ta đều rất hối hận khi đã tổn thương nàng!”
Sau đó Kính Tu xây một túp lều tạm để ở. Dựng xong lều, Kính Tu liền thực hiện nghi thức giao bái: rửa tay, ngồi vào bàn ăn, thưởng kê, thưởng canh, nếm tương, uống rượu hợp cẩn. Chỉ khác là, thông thường đây là nghi thức được thực hiện bởi một cặp nam nữ trước khi chính thức là vợ chồng, còn Kính Tu, chàng thực hiện nghi thức này một mình. Chàng vẫn để lại một chậu nước, một bát kê, một bát canh, một bát tương và một chén rượu hợp cẩn ở phía đối diện, một phần vì hy vọng Hằng Nga một ngày nào đó sẽ thực hiện nốt nghi thức ấy, một phần, như một lời hứa với chính bản thân mình, rằng suốt đời suốt kiếp này sẽ chỉ yêu một người là Hằng Nga. Mỗi ngày, Cuội vẫn luôn thay mới phần ăn ấy của Hằng Nga, tiếp tục hy vọng và chờ đợi.
Trong suốt năm năm sau đó, Kính Tu sử dụng lá và cành cây cổ thụ mà Hậu Nghệ hóa thành để làm thành thuốc, cứu giúp những người đi ngang qua gặp nạn. Những người được Kính Tu cứu thì nguyện ở lại để báo đáp Kính Tu. Thời gian trôi qua, ngày càng nhiều người ở lại, lâu dần, làng Đỗ đã lại nhộn nhịp, đông như xưa, có khi còn hơn vậy. Từ ấy, cứ ban ngày, Kính Tu lại giúp đỡ bà con, dùng thuốc cứu mạng, dùng trí giúp người, dùng chữ dạy trẻ. Rồi tới tối, nhờ có nhiều người trợ giúp, chàng đã có thể nghiên cứu để làm món bánh phức tạp mà Hậu Nghệ tả. Khi mọi người hỏi về chuyện hôn nhân, Kính Tu hào hứng kể cho mọi người về người con gái mình yêu, một tiên nữ xinh đẹp tuyệt trần tên là Hằng Nga, một cô gái đẹp người đẹp nết, tài sắc vẹn toàn. Chàng rất thích kể về nàng với mọi người, kể rằng nàng tuyệt vời ra sao, và đã giúp chàng trưởng thành như nào, nhờ gặp nàng, mà thế giới Kính Tu như rộng mở, chàng cũng nhờ thế mà trưởng thành hơn. Kính Tu có gì cũng chia sẻ với bà con trong làng không chút giấu diếm, duy chỉ có một thứ duy nhất chàng không nói với mọi người, chính là tên thật của chàng. Khi đoàn người đầu tiên được chàng cứu hỏi tên chàng để tiện báo đáp ân nhân, Kính Tu đã chọn cái tên rất tầm thường, Cuội. Chính là bài học mà ông ngoại đã dạy chàng. Quả thực, giờ chàng mới nhận ra, đôi khi, tầm thường như một viên đá cuội lại tốt. Và rần rà, những lần được hỏi tên sau đó, chàng cũng xưng mình tên là Cuội mà không chút ngại ngùng hay xấu hổ. Mọi người cũng đồng tình đó là một cái tên rất hay và ý nghĩa. Thời gian mà Cuội cảm thấy thích nhất là vào nửa đêm, khi mọi người đều đã đi ngủ hết, chàng sẽ lại nằm tựa đầu vào gốc cây cổ thụ mà Hậu Nghệ hóa thành mà lẩm nhẩm hát:
“Cùng nhau trèo lên quán dốc
Lốc ca lốc cốc tìm gốc cây đa
Nghỉ chân têm ba miếng trầu
Gối đầu tay không để ngắm sao trời
Nhà ai có con chim khách
Lách ca lách cách tìm đến chim kêu
Rằng a có ba cô nàng
Má đỏ môi hồng chúm chím đồng tiền
Hỏi cây đa sao vắng gió
Mỗi khi đêm về tang tính tình tang
Gốc đa nghiêng bóng đầu làng
Nối dây tơ hồng để ai ngóng trông
Rằng ai đi qua quán dốc
Nhớ chân quay về têm miếng trầu cay
Gốc đa soi bóng từng ngày
Đợi ai, ai chờ đợi ai
Cây đa chờ mắt em buồn
Tang tình tang tính tình tang
Cây đa buồn mắt em chờ
Tang tình tang tính tình tang
Cùng nhau trèo lên quán dốc
Lốc ca lốc cốc tìm gốc cây đa
Nghỉ chân têm ba miếng trầu
Gối đầu tay không để ngắm sao trời
Nhà ai có con chim khách
Lách ca lách cách tìm đến chim kêu
Rằng a có ba cô nàng
Má đỏ môi hồng chúm chím đồng tiền
Hỏi cây đa sao vắng gió
Mỗi khi đêm về tang tính tình tang
Gốc đa nghiêng bóng đầu làng
Nối dây tơ hồng để ai ngóng trông
Rằng ai đi qua quán dốc
Nhớ chân quay về têm miếng trầu cay
Gốc đa soi bóng từng ngày
Đợi ai, ai chờ đợi ai
Cây đa chờ mắt em buồn
Tang tình tang tính tình tang
Cây đa buồn mắt em chờ
Tang tình tang tính tình tang
Hỏi cây đa sao vắng gió
Mỗi khi đêm về tang tính tình tang
Gốc đa nghiêng bóng đầu làng
Nối dây tơ hồng để ai ngóng trông
Rằng ai đi qua quán dốc
Nhớ chân quay về têm miếng trầu cay
Gốc đa soi bóng từng ngày
Đợi ai ai chờ đợi ai
Cây đa chờ mắt em buồn
Tang tình tang tính tình tang
Cây đa buồn mắt em chờ
Tang tình tang tính tình tang
Tang tình tang tính tình tang
Tang tình tang tính tình tang
Tang tính tình tang”
Đến khi tuổi đã ngoài tứ tuần, cuối cùng thì Cuội cũng đã cùng với mọi người làm ra được món bánh ấy. Vừa hay, ngày hôm chiếc bánh được hoàn thiện cũng chính là ngày trăng rằm, Cuội và mọi người quyết định gọi loại bánh này là bánh Trung Thu. Cuội khẽ đặt bánh Trung Thu cạnh bát canh chàng để sẵn cho Hằng Nga rồi lại ra nằm tựa đầu vào gốc cây cổ thụ như mọi khi.
Khi chàng trở về nhà để chuẩn bị ngủ, chàng thấy Hằng Nga đang ngồi thưởng thức chiếc bánh với nụ cười vô cùng mãn nguyện. Cuội không kìm lòng được mà lập tức chạy tới ôm lấy Hằng Nga vào lòng. Hằng Nga khẽ vuốt mái tóc Cuội, nói:
“Chàng thực sự đã cố gắng nhiều rồi”
Cuội nhìn xung quanh thì phát hiện ra là không chỉ bánh Trung Thu, mà cả canh, kê, tương, rượu, nàng cũng đều đã đụng tới. Chàng xúc động tới phát khóc, khẽ ôm lấy má Hằng Nga mà nhìn thẳng vào mắt nàng, hỏi:
“Vậy là giờ chúng ta đã là vợ chồng, có thể sống tới đầu bạc răng long rồi phải không?”
Hằng Nga im lặng nhìn Cuội có chút buồn rầu.
“Sao? Sao vậy? Sao nàng không nói gì?”
“Thực ra…?”
“Ừm, nàng cứ nói đi. Không sao đâu, ta sẽ không giận dữ nữa đâu”
“Thực ra, ta đã được người trời tìm thấy. Họ sẽ xuống đón ta trở về trời sau ba canh giờ nữa”
Những lời Hằng Nga nói thật nhẹ nhàng mà lại như tiếng sét đánh ngang tai của Cuội, tai chàng ù ù không ngớt. Cuội nắm chặt lấy áo Hằng Nga, toàn thân run lên không ngừng, nước mắt rơi lã chã:
“Nàng… Đừng bỏ ta lại nữa mà… Chẳng lẽ sống ở trên kia vui hơn sống cùng với ta sao?”
“Ta… Chàng… Thực sự chàng cũng hiểu mà, ta là Thần, còn chàng là người thường. Chẳng lẽ… Chẳng lẽ chàng muốn ta phải chứng kiến cảnh chàng chết dần vì già sao?”, Hằng Nga ôm lấy đôi gò má của Cuội mà bật khóc nức nở.
“Ta… Ta không có ý đó…”, Cuội cúi gằm mặt, rồi chàng lấy tay quệt ngang nước mắt, cố gắng vẽ lên một nụ cười gượng gạo, nói tiếp:
“Ta đùa thế thôi. Chứ nàng coi xem, ta bấy lâu nay sống không có nàng vẫn ổn mà. Ta được mọi hàng xóm láng giềng quan tâm lắm. Ta… Ta…”
“Ta hiểu chàng chỉ đang cố kìm nén nỗi buồn thôi. Không sao đâu, hãy cứ khóc đi, hãy ôm lấy ta mà khóc này” Hằng Nga giang tay về phía Cuội.
Cuội như vỡ òa, ôm chầm lấy Hằng Nga mà khóc như một đứa trẻ suốt một canh giờ đồng hồ. Hằng Nga thì vẫn kiên nhẫn ôm lấy Cuội cho chàng thỏa chí khóc, không tỏ ra chút gì phiền phức. Sau đó, hai người cầm tay nhau đi quanh làng, Cuội kể cho Hằng Nga nghe về những con người nơi đây, những kỷ niệm từ ngày đầu xây dựng lại làng cho tới giờ, rồi kể về cả những đứa trẻ đầy tiềm năng,... Rồi họ cũng dừng lại tại gốc cây cổ thụ mà Hậu Nghệ hóa thành sau khi tạ thế.
“Đây… Là Hậu Nghệ đó. Hắn ta thực ra chỉ muốn tìm nàng để nói lời xin lỗi mà thôi. Hắn đã rất hối hận vì hành động của mình”
Hằng Nga khẽ đặt tay lên thân cây rồi gật đầu cung kính.
“Nhờ có cái cây mà Hậu Nghệ hóa thành này, mà ta cũng đã cứu được rất nhiều người. Mối hận thù của ta dành cho hắn cũng đã không còn nữa. Quả thực, giờ khi mọi chuyện đã qua rồi, nhìn lại mới thấy bản thân trước kia thật nông cạn biết bao”
“Không nông cạn thì sao có chuyện chàng ném đá làm thiếp tỉnh giấc, sao thiếp có thể gặp chàng chứ?”
“Ha ha. Phải, phải. Dù là nông cạn nhưng cũng đáng”
Sau đó Hằng Nga cùng Cuội ôm nhau, ngồi tựa đầu vào gốc cây mà ngắm nhìn bầu trời đêm. Hằng Nga lại chỉ Cuội những chòm sao và kể những câu chuyện về chúng như ngày xưa hai người vẫn thường làm. Thời gian ba canh giờ đã hết, quả đúng như Hằng Nga nói, người nhà trời thực sự kéo cả một đoàn người xuống để đón Hằng Nga, đủ để thấy Hằng Nga được họ coi trọng nhường nào. Chí ít, Cuội cũng có thể an tâm Hằng Nga sau này có thể có được một cuộc sống tốt đẹp.
Trước khi Hằng Nga khuất dạng, như sực nhớ ra điều gì, Cuội liền chạy tới chỗ gốc cây cổ thụ, loáy hoáy viết gì đó ở tám hướng xung quanh cây. Liền sau đó, cây cổ thụ bắt đầu bật gốc, dần dần bay lên trời cùng Hằng Nga. Cuội cố gắng hét lớn:
“Hằng Nga! Hãy thỉnh thoảng nhìn cái cây cổ thụ này để không quên ta và Hậu Nghệ nhé!”
Hằng Nga mỉm cười dịu dàng, gật đầu đồng ý.
Tới khi Hằng Nga khuất dạng, Cuội vẫn đứng đó nhìn trân trân về phía mặt trăng. Chàng nói nhỏ:
“Cám ơn Hằng Nga. Cám ơn Hậu Nghệ. Cám ơn tất cả mọi người tôi đã gặp và cám ơn mọi việc đã xảy ra trong đời tôi. Tôi… thực sự biết ơn”
— Hết —