Bốn tháng sau đó, giữa làng quê yên bình, bỗng gióng lên một tiếng chuông báo chiến tranh nổ ra ở phương Bắc. Tất cả các tráng đinh trong làng đều phải tòng quân, kể cả là Ngũ Đức. Nhưng lúc bấy giờ, Ngũ Đức vẫn còn chưa biết sự đáng sợ của chiến, cho rằng nó cũng chỉ giống trò đùa của đám trẻ con, và rồi cậu sẽ lại trở thành thủ lĩnh giống như cậu vẫn thường chơi với đám thanh niên trong làng vậy. Nhưng cuộc đời thì thường đâu có giống như bản thân thường vẽ. Ngay ngày đầu tiên tới doanh trại, Ngũ Đức đã thấy tới cả trăm, cả ngàn người to lớn phải gấp rưỡi bản thân. Người nào người nấy đều mặt mũi bặm trợn, ánh mắt đanh thép, cơ bắp trên toàn cơ thể như được đúc nặn mà nên. Điều ấy khiến Ngũ Đức dường như đã tan vỡ giấc mộng thủ lĩnh. Nhưng cậu vẫn không từ bỏ hy vọng, cậu cho rằng chỉ cần có thể gây ấn tượng tốt được với tướng quân, thì cho dù bản thân cậu có nhỏ bé hơn thì vẫn có thể trở thành chỉ huy được. Nghĩ vậy, Ngũ Đức vẫn im lặng chờ thời cơ.
Buổi tối đầu tiên tại doanh trại, tướng quân ra lệnh cho những người mới không được ăn cơm, để giữ cho bản thân luôn ở trạng thái tỉnh táo cao nhất, và tập làm quen với việc nhịn đói hành quân. Những người mới vào đều răm rắp nghe theo, không dám động vào dù chỉ là một hạt cơm, ai nấy mặt đều cúi gằm, không dám nhìn suất ăn bày ra trước mặt. Nhưng Ngũ Đức nào đâu có dễ dàng chịu nghe lời như vậy, cậu còn cho rằng đây là một cơ hội tốt để thể hiện bản thân mình. Thế là Ngũ Đức liền vơ hết chỗ thức ăn của đám người mới, nhét vào miệng mà nhồm nhoàm nhai chẳng kiêng nể một ai. Tướng quân thấy vậy thì cho gọi cậu tới hỏi chuyện. Ngũ Đức mừng thầm trong lòng, cậu cho rằng có vẻ như mình chuẩn bị trở thành chỉ huy có nhóm người này rồi. Ngũ Đức thậm chí còn tưởng tượng sẵn trong đầu vị tướng quân kia sẽ hỏi gì và bản thân sẽ cần phải đáp như nào, cuộc trò chuyện của hai người sẽ diễn ra như nào. Lại một lần nữa, mọi chuyện đi lệch khỏi dự tính của Ngũ Đức. Khi gọi Ngũ Đức ra trước mặt, vị tướng quân cất tiếng hỏi:
“Ngươi tên gì? Đến từ đâu?”
“Dạ bẩm, con tên là Ngũ Đức, cháu độc đinh của ông Tú Cát”, Ngũ Đức cố tình chêm vào thân phận của ông ngoại, vì nghĩ điều ấy sẽ khiến vị tướng quân ba phần nể nang. Nào ngờ đâu…
“Ha ha, được! Được lắm! Độc đinh phải không? Bảo sao ngang tàn như vậy! Người đâu, phạt hắn năm roi!”
Ngũ Đức bị quật liền năm roi, hét lên đau đớn.
“Bẩm đại nhân! Tại sao con lại bị đánh ạ?”
“Tại sao ngươi bị đánh à? Ngươi còn không biết sao? Ta đã ra lệnh như nào?”
“Khởi bẩm, là không được ăn cơm ạ. Nhưng thưa đại nhân, con đâu có đụng vào một hạt cơm nào?”
“Ồ, phải. Ngươi không có đụng một hạt cơm nào, ngươi chỉ ăn hết sạch đồ ăn thôi phải không?”
“Dạ vâng đúng ạ!”, mắt của Ngũ Đức sáng rỡ.
“Hay cho một kẻ linh hoạt và khôn lỏi như ngươi. Nhưng ngươi phải biết, ở chiến trường, khôn lỏi là chết đấy!”, vị tướng quân lấy ngón tay đưa ngang cổ ra hiệu rồi giơ tay ra lệnh:
“Người đâu! Cho hắn mặc giáp rồi chạy hai mươi vòng quanh doanh trại cho ta. Để ta xem lần này ngươi khôn lỏi như nào nữa!”
Và thế là Ngũ Đức, vừa phải chịu mười đòn roi, xong lại phải mặc thêm bộ giáp vảy, chạy hết hai mươi vong quanh doanh trại.
“Mả cha nhà nó chứ! Tên tướng quân này, hóa ra lại là một kẻ chẳng biết nhìn người! Bản thân đưa ra mệnh lệnh đầy sơ hở, đến khi bị mình nắm bắt được cái sơ hở ấy thì lại bắt mình chịu hình! Mả cha nhà nó chứ!”
Ngũ Đức cứ vừa chạy vừa chửi như vậy, thậm chí đến cả khi chạy xong cũng vẫn tiếp tục chửi.
Bắt đầu từ đó, Ngũ Đức cảm giác như bản thân bị tên tướng quân ghim chặt, lúc nào cũng bị theo dõi, các bài tập được giao thì như muốn ép chết cậu, lúc nào cũng nặng ngang với mấy tên to cao hơn. Cộng thêm suất ăn như cho chó mèo ăn, vừa hôi vừa ít, khiến Ngũ Đức vô cùng bất bình. Cậu đã nhiều lần tìm cách chơi xỏ tên tướng quân, nào là trèo lên cây da, giả thần giả quỷ để dọa tướng quân, rồi còn bịt chặt nồi cơm khiến cơm không thể chín hoàn toàn,... Nhưng lần nào cũng bị bắt rồi phạt, càng lúc càng phạt nặng hơn, mà càng phạt thì Ngũ Đức càng không chịu.
Cho tới ngày ra trận. Ngũ Đức vẫn không quên phải chơi khăm tướng quân một vố, khiến cho bị phạt cuốn trong lưới mà dắt bên hông ngựa.
“Ụm… Buồn nôn quá! Tướng quân, hôm nay ra trận rồi, có phải ngài nên tha con để con có trạng thái tốt nhất không?”
“Mọi người ơi! Thả tôi ra đi! Tôi đi để đánh trận chứ có phải để bị treo như này đâu!”
“Tướng quân ơi con biết sai rồi! Làm ơn thả con ra đi!”
“Giờ tôi mà nôn thì sẽ bẩn lắm đấy!”
“Aaaa! Khó chịu quá! Mấy người có cảm xúc không vậy? Mấy người thử nằm trong cái lưới này xem, rồi con ngựa đi cứ lắc lắc nữa! Khó chịu quá!”
…
Ngũ Đức cứ nói hoài nói mãi, cả đoàn quân cũng chỉ đành giả vờ không nghe, coi lời nói của cậu như tiếng ruồi nhặng bên tai. Tới khi giáp mặt quân địch, chủ tướng bắt đầu ra hiệu dừng lại để quan sát. Phía quân ta dẫn tới năm ngàn kỵ binh, mà bên quân địch chỉ có vỏn vẹn năm mươi người, điều đó càng khiến tướng quân cẩn thận. Ông ta nheo mắt nhìn về phía trước rồi bất chợt tái mét mặt.
“Hậ… Hậu Nghệ? Đó là Hậu Nghệ? Mẹ kiếp… Toàn quân tiến lên!”
Ông ta giơ cao thanh gươm ra hiệu, cùng lúc đó ra dấu cho người vỗ con ngựa đang treo Ngũ Đức, để nó chạy về theo hướng ngược lại. Ngũ Đức ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì xảy ra. Nhưng chỉ một khoảnh khắc sau ấy, một thảm kịch xảy ra trước mặt Ngũ Đức. Ở phe địch, đứng giữa năm mươi người ấy là một chàng trai cao lớn, gấp đôi Ngũ Đức, mái tóc dài đen óng, khuôn mặt sắc cạnh hình chữ điền cùng cặp lông mày rậm, ánh mắt sắc lẹm. Gã ta lấy liền một lúc mười mũi tên mà ngắm bắn. Mười mũi tên bắn ra, mũi tên nào cũng trúng giữa yết hầu của lính quân ta. Không những thế, từ lúc hắn lấy tên, giương cung rồi thay tên, hoàn toàn không hề có quãng nghỉ, một mình hắn bắn tên bằng cả một đội quân trăm người. Quân ta cứ lao lên để rồi chết như ngả rạ. Vị tướng quân cũng đã biết trước điều này sẽ xảy ra khi nhìn thấy Hậu Nghệ, lúc ấy, ông biết rằng số mình đã định. Lúc ấy, nếu ra lệnh cho toàn quân quay đầu, khiến phá vỡ đội hình thì sẽ chẳng càng khiến thêm loạn, thà rằng lao lên, chém được một kẻ thì hay một kẻ. Ấy vậy mà… Toàn bộ năm ngàn quân… Đã chết sạch trước khi kịp giáp mặt với thuẫn binh của kẻ địch. Điều ấy khiến Ngũ Đức sợ hãi tột độ. Khi Ngũ Đức nhìn vào ánh mắt của tên Hậu Nghệ, ánh mắt hắn ta như một mũi tên xuyên qua tim cậu. Chưa bao giờ trong đời, cho dù là trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất lúc nửa đêm, Ngũ Đức cảm thấy sợ hãi như vậy. Cái cảm giác sinh mạng của bản thân mỏng manh như sợi dây cung, chỉ cần hắn kéo tên thêm một lần nữa, là cậu sẽ chết. Những thứ cậu từng tự hào, trí tuệ, vẻ ngoài, gia thế,... Lúc này đều chẳng dùng được cái gì. Hơi thở của Ngũ Đức trở nên ngày một nặng nề, mồ hôi toát ra như tắm, cái tấm lưới từng khiến Ngũ Đức cảm thấy khó chịu suốt dọc đường, giờ lại giống như một lớp bảo vệ giúp cậu cảm thấy an toàn hơn đôi chút. Ngũ Đức co quắp người, không dám mở mắt, mặc kệ cho con ngựa đưa mình tới đâu thì tới.
Ngũ Đức dần thiếp đi lúc nào không hay. Tới khi tỉnh lại, Ngũ Đức nhận ra bản thân đã về lại quê mình. Cậu vùng vẫy thoát khỏi tấm lưới rồi hớt hải chạy thẳng về nhà. Vừa về tới nhà, Ngũ Đức lao tới ôm chầm lấy ông ngoại, khóc nức nở như một đứa trẻ. Cả nhà đều cảm nhận được cái sự cương ngạnh của Ngũ Đức đã biến mất, vì vậy mà cũng không ngần ngại lao tới ôm và an ủi cậu. Kể từ ngày hôm đó, mặc dù không còn tỏ ra kiêu ngạo khiến người khác ghét bỏ nữa, Ngũ Đức lại cư xử như một đứa trẻ lên bảy, ngày ngày chơi chắt chơi quay, thả diều, pháo đất,... Hoàn toàn không còn chút nào dáng vẻ của một độc đinh, cháu ngoại ông Tú Cát. Dẫu vậy, thì Ngũ Đức ngốc nghếch này cũng khiến người ta có cảm tình hơn là chàng trai kiêu ngạo hống hách ngày xưa, tuy là những thiếu nữ trong làng thì chẳng còn thích cậu ta nữa. Người trong nhà cũng chỉ biết tự an ủi bản thân bằng cách nghĩ rằng thôi thì miễn là cậu có cuộc sống vui vẻ, tận hưởng cũng là điều đáng mừng. Mọi người từ đó đặt cậu biệt danh là Bờm. Một cách gọi thân thương, có chút thương hại nhưng lại mang cảm giác gần gũi, đáng yêu.
Cứ tưởng rằng ông trời đã khiến Bờm trở nên như vậy rồi thì sẽ tha cho cậu ấy khoảng thời gian còn lại của cuộc đời. Ấy vậy mà chỉ mới hai năm sau, Bờm đang chơi cùng đám trẻ con đột nhiên co rúm người lại, chính là do tiếng chuông kêu gọi đi lính lại vang lên. Toán quân của Hậu Nghệ giữ vững quy tắc, mỗi ngày chỉ đánh một trận, sau mỗi trận sẽ chỉ tiến thêm đúng hai mươi dặm, sau mỗi trận chiến thì sẽ nghỉ giữ sức và phòng thủ tại cứ điểm trong vòng hai mươi chín ngày. Tuy tốc độ tiến quân chậm, nhưng lại đánh đâu thắng đó, chỉ sau hai năm, quân đội của Hậu Nghệ đã tiến gần sát kinh thành. Bởi vậy nên lần chiêu quân này, tất cả đàn ông trong làng, dù là người già hay đã lập gia đình đều phải đi tòng quân. Trong lúc người dân trong làng còn đang nháo nhác, bàn tán rôm rả, thể hiện đủ những xúc cảm khó hiểu, sợ hãi, phẫn nộ và mệt mỏi, thì Bờm đã thục mạng chạy về phía ngọn đồi sau làng. Bờm lúc ấy chẳng nghĩ gì nhiều, cậu chỉ biết chạy, chạy và chạy, miễn là tránh xa được cái âm thanh đáng sợ kia, càng xa càng tốt. Bờm cứ chạy hoài, chạy mãi, rồi cậu đột ngột vấp phải rễ cây mà ngã sấp mặt xuống. Bờm lổm ngổm bò dậy, sụt sùi tính khóc thì cậu thấy một con thỏ trắng tuyệt đẹp. Bộ lông của nó trắng muốt, bồng bềnh như mây trời, đôi mắt màu hồng nhạt pha đỏ giống ánh mặt trời khi chiều tà cùng với đôi tai thon dài mềm mại. Bờm thấy vậy thì liền hết khóc, cậu bò tới chỗ con thỏ. Bờm vừa bò tới gần thì con thỏ đã lại nhảy ra xa. Bờm cay cú, càng muốn bắt được con thỏ hơn nữa. Cậu chậm rãi, cẩn thận bò tới gần con thỏ, cố gắng không tạo ra bất cứ tiếng động nào dù cho là nhỏ nhất. Dẫu vậy thì cứ mỗi lần Bờm nhảy tới thì con thỏ lại kịp phản ứng để nhảy ra xa. Và cứ thế, Bờm thì tiếp tục rình theo để tóm lấy nó, còn con thỏ lại cứ vậy nhảy đi. Sau một hồi thì Bờm đã rượt đuổi theo con thỏ tới trung tâm của khu rừng, cạnh một cây đa vô cùng cao lớn, cỡ mười người trưởng thành mới ôm hết. Ở nơi đó, có một cô gái đẹp, vô cùng đẹp, đẹp tới nao lòng, một vẻ đẹp chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn. Làn da trắng muốt, đôi lông mày lá liễu thanh thoát, đôi môi đỏ mọng, ánh mắt lấp lánh như được đính những vì sao sáng. Dù vậy thì Bờm cũng đâu nào quan tâm, đối với tâm trí chỉ ngang một đứa trẻ lên bảy bây giờ của Bờm, thì cái cậu càng quan tâm hơn cả chỉ có con thỏ trắng kia mà thôi. Bờm vừa định nhảy tới vồ lấy con thỏ trắng lần nữa thì cô gái lên tiếng:
“Thôi! Chàng làm ơn hãy buông tha bé thỏ ngọc của thiếp”
Bờm chỉ giật mình khi thấy cô gái lên tiếng, rồi cũng chẳng quan tâm tiếp tục nhảy tới vồ lấy con thỏ. Khiến cho cô gái phải sử dụng phép thuật để giữ cậu ngay trên không trung. Cô gái tay cầm chiếc quạt tròn che đi một nửa khuôn mặt, khoan thai bước tới chỗ Bờm. Vừa nhìn thẳng vào mắt Bờm, cô gái liền lập tức nhìn thấy hình ảnh Hậu Nghệ đang giương cung nhắm bắn. Nhìn thấy hình ảnh ấy khiến cô gái vô cùng hoảng hốt.
“Tại sao… Tại sao lại là chàng ta? Chẳng lẽ ta đã chạy trốn đến đây rồi vẫn không thể nào chấm dứt được duyên nợ với chàng ta?”
Rồi từ cảm xúc bất ngờ hoảng hốt, ánh mắt của cô gái lại trở nên dịu hiền. Cô khẽ xoa lên mái tóc của Bờm, nói:
“Bảo sao cậu lại trở nên như vậy. Hẳn là cậu đã phải sợ hãi lắm. Dù sao gặp nhau cũng là cái duyên, vậy hãy để ta giúp cậu vượt qua nỗi sợ này.”
Nói rồi, cô gái khẽ phất quạt, ký ức của Bờm về Hậu Nghệ dần bị nhòe đi. Bờm vẫn có thể nhớ những ký ức từ trước đến nay, kể cả lúc gia nhập quân đội hay khi toàn quân bị thảm sát hàng loạt. Tuy nhiên, thứ làm Bờm sợ hãi và ám ảnh suốt bao tháng ngày qua, ánh mắt sắc lẹm của Hậu Nghệ như có thể bắn thủng người cậu bất cứ lúc nào, đã bị che đi, giúp Bờm có lại sự tỉnh táo vốn có. Bờm như một người như vừa tỉnh khỏi cơn mê man, ánh mắt bất giác có lại sự lanh lạy của trước kia. Lúc bấy giờ, chàng mới giật mình trước vẻ kiều diễm của cô gái trước mặt. Bờm vội đỏ mặt, cúi đầu hành lễ:
“Tại… Tại hạ… Ta… Tôi xin cám ơn nương tử… À không, mỹ nhân… Không, phu nhân! Tiểu thư!”
Cô gái che quạt cười khúc khích, đáp:
“Đây mới là một phản ứng nên có của một chàng trai khi thấy ta chứ. Sao? Chàng thấy ta có đẹp không?”
“Đẹp! Rất đẹp!”
“Vậy còn giờ thì sao?”
Cô gái lột xác, trở thành hình dạng nửa người nửa thú, trên đầu mọc đôi tai thỏ dài trắng phau, cùng một cái sừng dài, toàn thân cũng phủ một lớp lông màu trắng, ánh mắt thì như của loài rắn, cơ thể cũng trở nên cao gấp đôi Bờm, cơ bắp cuồn cuộn như đá tảng. Bờm vẫn nhìn thẳng vào mắt của cô gái bằng ánh mắt kiên định, nói:
“Đẹp! Vẫn rất đẹp!”
Cô gái bật cười sảng khoái rồi biến lại thành hình dáng cũ, đưa chiếc quạt tròn vào trong tay Bờm, nói:
“Chàng quả là một chàng trai thú vị! Câu trả lời của chàng rất vừa ý ta, vậy nên ta tặng chàng chiếc quạt này. Còn việc có thể dùng nó tới đâu, thì còn phải xem khả năng của chàng”
Bờm mừng rỡ nhận lấy chiếc quạt, được tặng quà bởi một mỹ nhân như vậy, thì dù chỉ có thể quạt mát cũng thấy thích. Nhưng Bờm chợt nghĩ, chiếc quạt này quá nổi bật, nếu mình cầm nó, hẳn mọi người sẽ tò mò và biết được sự tồn tại của người đẹp như này, như vậy vừa phá vỡ sự thanh tịnh của nàng, lại khiến cho bí mật giữa hai người không còn nữa. Vậy nên Bờm ngỏ ý hỏi rằng liệu cô gái có thể biến chiếc quạt tròn này thành một chiếc quạt mo bình thường không?
Cô gái có hơi khó hiểu nhưng cũng gật đầu đồng ý. Sau đó hai người chào tạm biệt nhau, Bờm vui vẻ trở ra khỏi khu rừng, vừa đi vừa nhảy chân sáo, tay thì không ngừng phe phẩy chiếc quạt.
Lúc Bờm trở về thì mọi người cũng đã được triệu tập đi lính hết. Nhà của Bờm nhờ có quan hệ và đút lót chút tiền bạc, vậy nên ông ngoại Bờm không cần phải đi, nhưng cha của chàng thì vẫn phải nhận lệnh tòng quân. Mối quan hệ của Bờm với cha thì vốn đã không mấy tốt đẹp, vậy nên khi biết tin thì chàng cũng chẳng quan tâm nhiều lắm, thậm chí trong lòng còn có chút mừng thầm. Để bản thân không bị bắt đi lính, Bờm dù đã minh mẫn trở lại vẫn cố tình ra ngây ngô, ngơ ngốc. Từ ngày hôm đó, ngày nào cũng như ngày nào, ban ngày thì Bờm chạy vào trong rừng chơi, nói chuyện và đùa giỡn với cô gái xinh đẹp, tối về thì lại mắc võng ra giữa sân, vừa nằm vừa phẩy quạt mà nhớ tới nàng. Ban đầu cô gái còn có chút e dè và thẹn thùng, không muốn quá thân thiết với Bờm. Nhưng sự kiên trì của Bờm đã được đền đáp, cô gái cũng dần mở lòng ra, và hai người ngày một thoải mái với nhau. Bờm cuối cùng cũng đã biết được cô gái tên là Hằng, nghĩa là vĩnh hằng, và vì cô là một người con gái đẹp, nên Bờm đã đặt cho cô một cái tên là Hằng Nga.
Hằng Nga kể cho Bờm rằng cô vốn là một tiên nữ trên trời, sống cùng một người chồng tên là Hậu Nghệ, những ngày tháng bên nhau khá êm đẹp. Ban đầu, chàng thích Hậu Nghệ vì chàng ta là một con người võ nghệ cao cường, nhưng lại không kiêu căng, khoe mẽ, ngược lại còn rất dịu dàng và tốt bụng với mọi người, lúc nào trên trời có chiến tranh, Hậu Nghệ cũng tiên phong đi đầu, nhưng tới khi được vinh danh và trao thưởng thì thường xuyên nhận sau cuối. Vậy mà sau một lần tỉ thí võ nghệ, Hậu Nghệ như trở thành một con người khác hẳn. Đôi lông mày cau lại, ánh mắt sắc bén, vô tình, tính tình cũng ngày càng trở nên nóng nảy, dễ tức giận. Hằng Nga cho rằng chỉ cần mình tiếp tục dịu dàng, quan tâm tới chồng, thì Hậu Nghệ sẽ có thể trở lại như trước kia. Dẫu vậy, dù đã bao lâu trôi qua, Hậu Nghệ vẫn nóng nảy như vậy. Hằng Nga cảm thấy khó hiểu, cho rằng liệu có phải có tà vật gì đó đã khiến chồng mình thay đổi như vậy. Nàng bèn quyết chí theo dõi chồng thì nhận ra chồng mình trước khi đi khỏi nhà sẽ tới gốc cây sau vườn, bới lấy một chiếc hộp đen gì đó. Khi ấy, Hậu Nghệ sẽ trở nên vô cùng cảnh giác, ngó nghiêng xung quanh giống như không muốn để ai phát hiện. Sau đó hắn ta sẽ lấy vật trong hộp ấy ra, đưa lên gần mũi ngửi rồi tỏ ra thỏa mãn rồi cất lại vào hộp và lại chôn nó xuống đất. Hằng Nga tò mò nó là thứ gì mà lại khiến chồng mình cư xử kỳ quặc như vậy. Nàng đợi lúc Hậu Nghệ đi khuất thì liền chạy tới gốc cây ấy mà đào lên. Đó là một chiếc hòm màu đen hình chữ nhật với những đường hoa văn màu vàng óng. Vừa cầm chiếc hộp lên tay, Hằng Nga đã cảm thấy một sự gớm ghiếc tột cùng, tới mức nàng ngay lập tức muốn chặt phăng đôi bàn tay của mình. Nàng nuốt nước bọt để nhét ngược sự sợ hãi vào trong, nín thở mở nắp chiếc hộp ra.
Ngay khi chiếc hộp vừa mới mở ra, cơ thể Hằng Nga lập tức bị biến đổi, trở thành con thỏ một sừng kỳ dị với cơ bắp cuồn cuộn như thằng Bờm từng thấy. Đồng thời, một luồng sức mạnh dạt dào cũng tuôn trào khắp cơ thể Hằng Nga. Cảm chừng như lúc này đây, Hằng Nga có thể xé toạc mặt đất, cắt đôi bầu trời chỉ trong một ý niệm. Bảo sao Hậu Nghệ lại không bị nghiện cái cảm giác ấy cơ chứ. Nhưng Hằng Nga thì khác, đối với nàng, cái sức mạnh này chẳng để làm gì, và nó càng không đáng để khiến nàng phải đánh đổi ngoại hình xinh đẹp của bản thân. Vậy nên nàng đã lập tức hất văng nó xuống đất mà cắm đầu bỏ chạy. Nàng vì quá sợ hãi nên cứ chạy một mạch về phía trước mà không biết trăng sao gì, để rồi rơi xuống trần gian do bước hụt vào rìa của thiên giới. Sau đó nàng đó mê man ngủ suốt ba trăm năm liền. Mãi cho tới khi một viên đá cuội mà Bờm từng ném bay trúng đầu nàng thì nàng mới bắt đầu tỉnh lại. Còn về thứ trong chiếc hộp kia là gì thì vì đã bỏ đi do quá sợ hãi nên Hằng Nga cũng chẳng nhìn rõ, chỉ nhớ mang máng lúc mình vứt xuống thì cảm giác như là một loại rễ cây.