Bờm sau khi thoát chết thì cũng chẳng rời khỏi làng. Lý do thứ nhất thì làng bây giờ chính là nơi an toàn nhất, nhờ có mùi của xác chết phân hủy khắp nơi mà mùi của Bờm được giấu đi. Điều đó càng được chứng minh khi bất cứ ai đi qua làng cũng đều bị Hậu Nghệ vồ lấy mà ăn thịt. Lý do thứ hai, Bờm muốn bản thân phải ghi nhớ thật kỹ, thật kỹ cái hậu quả mà mình gây ra. Mỗi ngày, Bờm đều đi lại quanh làng, lặng nhìn những xác người đang dần phân hủy và bốc mùi, nén lại cái cơn buồn nôn trực trào bất cứ lúc nào vì nếu nôn thì sẽ thực sự là bất kính, trong đầu thì liên tục nghĩ tới hai chữ “giá như”, giá như Bờm không gây sự với Hậu Nghệ, giá như Bờm không bày trò này ra, giá như Bờm không quen Hằng Nga, giá như… Bờm đã chết từ trong trận chiến khi xưa. Nhưng dù có nghĩ như vậy hàng trăm, hàng ngàn lần, Bờm cũng chẳng đủ dũng cảm để có thể tiến vào khu rừng kia mặc cho Hậu Nghệ cào xé, Bờm… sợ chết. Vì vậy nên Bờm phải ở lại đây, tiếp tục giày vò bản thân để hối lỗi về hành động sai trái của mình. Bờm nhất quyết không đụng vào bất cứ một tài sản nào của mọi người trong làng kể cả là của phú ông. Bờm cho rằng bản thân không có quyền và cũng không xứng đáng được sử dụng những tài sản, những của cải vật chất ấy. Ngày qua ngày, Bờm ngồi vất vưởng ở đầu làng như một tên ăn xin, người không chịu tắm, quần áo không chịu thay, may ra nếu có đói thì cũng chỉ nằm ngửa người ra há miệng đợi sung rơi vào mồm, Bờm quyết định phó mặc mạng sống của bản thân cho ông trời, nếu một ngày Bờm đói mà không còn sung rụng xuống nữa, vậy thì đó sẽ là cái kết của Bờm. Đó là cái chết nhẹ nhàng nhất và cũng là cái chết kéo dài nhất mà Bờm có thể nghĩ ra. Và lý do cuối cùng, để ngăn cái tai họa mình gây ra tiếp tục tạo nên những thương vong, Bờm quyết định sẽ ở lại làng, cảnh báo những lữ khách đi ngang qua tìm con đường khác thay vì tiếp tục tiến bước, để tránh việc họ sẽ phải bỏ mạng. Nhưng mà cũng đâu phải ai cũng tin lời Bờm, một kẻ bẩn thỉu rách rưới trông như ăn mày thì liệu được mấy người sẽ tin chứ? Vậy là cứ mỗi ngày, Bờm lại cố gắng thuyết phục các lữ đoàn đừng tiếp tục tiến lên phía trước mà hãy vòng đường khác mà đi, thầm cầu khấn họ sẽ tin lời mình, để rồi lại tuyệt vọng, tự trách, hối hận, ăn năn, khóc lóc, khi những lữ đoàn đó không tin lời mình để rồi tiếng kêu thất thanh của họ vang vọng cả khu rừng.
Những lời kêu cứu tuyệt vọng ấy chính là động lực để Bờm tiếp tục chỉnh sửa câu chuyện và cách bắt chuyện của mình. Sau một khoảng thời gian liên tục sửa đổi, Bờm đã tìm được một cách rất hiệu quả để ngăn người qua đường tiếp tục tiến bước. Bờm sẽ nằm chờ sẵn ở dưới gốc cây, tới khi có người đi ngang qua, Bờm nhờ họ hái hộ sung để ăn. Sau khi nhận lấy sung rồi, Bờm sẽ mỉm cười cảm ơn để lấy được thiện cảm từ người qua đường, khiến họ cảm thấy Bờm chẳng hề có ác ý. Tiếp đó, Bờm sẽ kể cho họ nghe câu chuyện về ông Ba Mươi.
“Ông Ba Mươi tên thật là Phạm Nhĩ, vốn là người cõi trời, có sức khỏe lạ lùng, những việc rời núi, lấp biển, đội đá, bẻ cây,... không một ai bì kịp. Đặc biệt, ông có hai vành tai dài và rách, vì lúc nhỏ ông thường dùng hai tai cho nhiều người móc vào mà đu, rồi xoay như chong chóng. Cũng vì thế mà người ta quen gọi ông là Phạm Nhĩ.
Phạm Nhĩ vốn luôn kiêu ngạo về sức mạnh và tài phép của mình nên thường hay gây gổ đánh nhau với bất cứ ai ngứa mắt không một chút kiêng nể. Trong một lần, vì gây gổ với thần mặt trời, Phạm Nhĩ đã bị thua và đánh bay thành lốt hổ, những vệt đen trên người hắn chính và rơi xuống nhân gian.
Tuy đã thua cuộc và bị đánh thành lốt hổ, Phạm Nhĩ vẫn giữ tính cách hung hăng và bạo lực của mình. Hắn thậm chí còn ăn nhiều hơn trước. Mỗi ngày hắn phải ăn tới ba mươi người trưởng thành hoặc ba mươi con lợn rừng mới đủ. Vậy nên mọi người quanh đây đều gọi hắn là ông Ba Mươi. Ông Ba Mươi khi thấy con mồi sẽ lập tức nhảy vồ tới, nhưng hắn sẽ không để con mồi chết luôn mà đầu tiên sẽ đánh gãy hai chân, sau đó cắn vỡ tủy ở đầu gối khiến con mồi kêu la trong đau đớn, đau mà không thể chết, vùng vẫy mà chẳng thể thoát. Tiếp đó, ông Ba Mươi sẽ cắn đứt dần từng miếng thịt của con mồi, nhai chầm chậm, rồi lại liếm vào những phần thịt bị cắn như một cách gia tăng gia vị. Hắn sẽ từ từ gặm nhấm con mồi trong suốt hơn hai canh giờ, để con mồi cầu chết cũng chẳng được. Dù cho có tới ba mươi người thì hắn cũng sẽ cắn phế toàn bộ rồi mới bắt đầu nhấm nháp, vậy nên càng đông người thì sự thống khổ sẽ chỉ càng kéo dài mà thôi”
Nghe đến đó, bất cứ kẻ nào cũng sẽ sợ hãi mà bỏ chạy, chẳng dám đi tiếp. Một ngày nọ, cũng như bao ngày khác, lại có một đoàn người đi tới, Bờm vẫn cứ theo như kịch bản cũ mà làm. Ngay khi đoàn người đi đến, Bờm liền kêu lớn:
“A! Đói quá!”
Một tên tùy tùng đi đầu trong đoàn người bước tới hỏi:
“Có chuyện gì vậy?”
“À… Tôi đói quá. Vị huynh đài đây, có thể hái giúp tôi chùm sung trên kia xuống để ăn không?”
“Hả? Tôi? Tại sao cậu không tự hái xuống?”
“Thông cảm đi. Tôi đói quá rồi. Không còn sức để trèo hái nữa”
“Nhưng cứ ăn sung vậy thì sao mà đủ sức? Đây, cầm lấy nắm xôi này mà ăn rồi kiếm việc làm đi”
“Thôi, tôi chỉ cần ăn sung thôi là đủ sống rồi. Đâu cần làm việc nặng nhọc làm gì chứ?”
“Cậu… Sao cậu lại lười đến vậy?”
Ở trong xe ngựa, một thanh niên ngó đầu ra, hỏi vọng:
“Có chuyện gì vậy?”
Tên tùy tùng chạy lại, bẩm báo:
“Dạ bẩm, đằng kia có một tên lười muốn nhờ nô tài vặt sung xuống cho ăn ạ. Nô tài có đưa hắn nắm xôi để ăn mà tìm việc làm nhưng hắn nhất quyết không chịu”
“Vậy à? Hừm, có vẻ thú vị. Để ta xuống xem thử”
“Ấy công tử! Ngài không cần đâu”
Chàng thanh niên đó bước xuống xe và đi tới chỗ của Bờm. Anh ta nghiêng người, mỉm cười nhìn Bờm:
“Xin chào! Có phải cậu cần giúp hái chùm sung trên kia không?”
“Phải. Đúng vậy”
Chàng thanh niên liền lập tức cởi hài, dùng chân mình vặt sung xuống thả vào miệng Bờm. Bờm giật mình nhổ sung ra ngoài:
“Khụ khụ! Ọe! Gì vậy?”
“Thì chẳng phải cậu muốn ăn sung sao, tôi vừa hái cho cậu đó”
“Nhưng sao lại dùng chân chứ? Bẩn chết đi được”
“Chân thì có sao chứ? Với người chỉ nằm đó chờ sung thì chẳng phải có sung ăn là được rồi, bẩn cũng chẳng ảnh hưởng gì sao?”
“Ha ha ha. Đối đáp hay! Được đó! Nể tình cậu đối hay như vậy, tôi khuyên cậu một câu”, Bờm chỉ về phía khu rừng, nói:
“Cậu đi qua đây, hẳn là muốn băng qua khu rừng kia phải không? Nghe tôi, đừng đi qua đó”
Rồi Bờm bắt đầu kể về sự tích về ông Ba Mươi mà bản thân vô cùng tâm đắc. Chàng thanh niên kia cũng tròn mắt lắng nghe. Nhưng sau khi nghe xong chuyện, chàng thanh niên lại đứng dậy phủi bụi, cám ơn Bờm vì câu chuyện rồi xin phép tiếp tục hành trình của mình.
“Này! Anh không tin chuyện tôi kể nãy giờ à? Đừng nghĩ những điều đó là viển vông, tuy nó thật sự khác cuộc sống của chúng ta, nhưng nó là thật đấy”
“Đa tạ bác đã nhắc nhở, nhưng quả thực con đường này, mỗ bắt buộc phải đi”
“Tại sao lại bắt buộc phải đi? Dù có kể cả mất mạng sao?”
“Phải, quả thực là kể cả mất mạng cũng phải liều một phen. Có những chuyện mà dù có chết cũng phải làm, giống như việc bác thà chết đói cũng chỉ ăn sung vậy”
Bờm cứng họng, cảm giác như bản thân vừa tự lỡ hố chính mình.
“Giống… giống là giống thế nào được? Biết đâu được trước khi tôi chết đói, tôi sẽ đổi ý thì sao? Còn nếu cậu vào trong kia thì sẽ không còn cơ hội quay đầu đâu”
“Bác nói phải. Nhưng quả thật, ở đời, có những chuyện dù không thể quay đầu, cũng phải liều cược một phen”
“Tại sao cậu lại cứng đầu thế nhỉ? Rốt cuộc là vì lý do gì?”
“Có lẽ bác ở đây lâu nên không biết. Một thời gian trước, đội quân bách chiến bách thắng của phương Bắc đột ngột biến mất. Biết được tin đó, nhà vua liền cùng tàn quân quay lại chiếm đóng kinh đô. Phải mốt một khoảng thời gian họ mới quay trở về được và chính thức trở lại làm chủ kinh thành. Nhưng vì phần lớn nhân tài đã bị tổn thất trong trận chiến với quân phương Bắc, vậy nên giờ đây nhà vua đang rất gấp rút chiêu gọi người tài từ khắp nơi. Đây là lúc thích hợp nhất để tiến cử làm quan”
“Tiến cử làm quan? Cậu muốn làm quan tới phát điên rồi sao? Vì thế mà mạo hiểm tính mạng? Trông cậu cũng đâu phải nghèo tới mức như vậy?”
“Dạ phải. Mỗ không nghèo tới mức phải ham vị trí quan lại tới bỏ cả mạng, nhưng làm quan, thì mình mới cống hiến được cho đất nước, làm quan thì mình mới có thể thay đổi, mới có thể đóng góp nhiều hơn vào việc xây dựng, kiến thiết”
“Cậu điên sao? Mạng của mình không muốn lại muốn đâm đầu vào chỗ chết vì người khác?”
“Ha ha. Cái đấy… Là quan điểm của mỗ thôi. Vì để có cơ hội phục vụ đất nước, mỗ dù có chết cũng đáng. Quyết không hối hận!”
Vừa dứt lời, chàng thanh niên liền quay người rời đi. Đi được năm bước, anh ta bỗng dừng lại. Chàng thanh niên dặn dò giai nhân một hồi, không rõ dặn gì, chỉ thấy người hầu của anh ta ôm chân anh ta mà khóc lóc. Tiếp đó, một mình anh mang theo một tay nải, thong dong bước về phía khu rừng, còn những người hầu kẻ hạ kia thì đánh xe quay đầu theo hướng ngược lại. Bờm thấy vậy thì liền chạy tới, hốt hoảng:
“Cậu đang làm cái gì vậy?”
“Thì là lên đường đi thi đó”
“Nhưng chẳng phải tôi đã bảo trong đó có con quái vật rồi sao?”
“Phải, mỗ tin bác nên mỗ đã bảo gia nhân đi về hết rồi”
“Vậy sao cậu còn đi? Tại sao cậu cứ phải cố chấp như vậy? Rốt cuộc phục vụ đất nước là gì đối với cậu mà khiến cậu ngoan cố như vậy?”
“Là gì với mỗ sao?” Chàng thanh niên đứng lại, ngẩng đầu lên nhìn trời:
“Bác nghĩ, một con người sống được bao nhiêu lần mười năm? Bốn? Hay năm?”
“...”
“Khi chúng ta trưởng thành, học được cơ số sách thành hiền, thì bản thân đã đi qua nửa cuộc đời rồi. Nếu so với rừng cây cả trăm, cả ngàn năm tuổi kia, chẳng phải là quá ngắn hay sao? Nếu bản thân không có mục tiêu trong cái cuộc sống ngắn ngủi ấy, thì quãng thời gian còn lại, dù là hai chục năm, ba chục năm nữa, thì cũng chỉ như một cái cây non mà thôi, dù sống bao lâu cũng chẳng cảm thấy đủ. Còn nếu con người có mục đích, thì dù họ có chết trước khi đạt được cái mục đích ấy, thì chẳng phải cuối cùng trước khi chết, họ cũng được nhìn thấy con đường mình đã đi sao?”
“Nhưng cậu có thể quay lại rồi đợi sau mà?”
“Phải, tôi hoàn toàn có thể đợi, đợi một năm, hai năm, có là gì chứ? Tôi đã đợi cả nửa đời người rồi, nhưng liệu rồi cứ ngồi đợi như vậy bao giờ sẽ được? Nếu con quái vật trong kia vẫn sống mãi, vậy thì chẳng phải tới cuối đời tôi cũng không thấy thỏa mãn hay sao?”
“...”, ngập ngừng đôi chút, Bờm nói: “Vậy thì hãy để tôi đi cùng cậu đoạn đường cuối cùng này”
“Đa tạ bác”
Sau đó Bờm và chàng thanh niên khôi ngô tiến vào trong rừng.
Ngay khi vừa bước vào rừng, cảm giác nguy hiểm lập tức cảnh báo Bờm khiến cậu ngay tức khắc chạy núp vào một góc. Hậu Nghệ đang nằm ngủ ở sâu trong trung tâm khu rừng bất chợt ngửi lại thấy mùi sợ hãi quen thuộc của con mồi năm xưa, cái ý muốn vờn bắt vui vẻ lại trỗi dậy trong hắn. Hậu Nghệ gầm gừ vang vọng khắp khu rừng. Chàng thanh niên kia cũng toàn thân nổi da gà, nhưng anh ta vẫn cố gắng nuốt ngược nỗi sợ để bước tiếp. Do trời quá tối nên anh ta lấy trong túi ra một bấc đèn dầu để soi sáng. Tiếng gầm gử vẫn tiếp tục vang vọng xung quanh không ngớt. Chàng thanh niên vẫn tiếp tục đi tiếp. Đã đi qua nửa khu rừng mà vẫn không thấy động tĩnh gì. Chàng thanh niên trên mặt thoáng chút rạng rỡ, nghĩ thầm:
“Có lẽ ông trời cũng phù hộ để mình có thể thi làm quan rồi. Chắc hôm nay con quái vật đó đã no rồi. Cám ơn, thật sự cám ơn các vị ân nhân đã hy sinh trước nằm trong bụng ông Ba Mươi để mỗ có thể sống sót”
Nghĩ đến đó, chàng thanh niên liền chắp tay lạy, quên mất bấc đèn dầu khiến đèn rơi xuống. Ngay tức khắc, Hậu Nghệ nhảy vồ tới, xé toạc chàng thanh niên thành hai mảnh rồi ăn một cách ngấu nghiến phần thân. Bờm núp một góc cũng phải bịt miệng ngăn cảm giác buồn nôn.
“Không được! Không được! Mình phải làm một cái gì đó!”, Bờm ôm đầu sợ hãi, cậu ta bắt đầu bứt tóc rồi tự gõ đầu bản thân “Nghĩ đi nào! Nghĩ đi nào!”
Trong lúc suy nghĩ của Bờm đang bị rối bời bởi nỗi sợ, một con đom đóm lập lòe bay qua khiến Bờm bất giác chú ý.
“Phải rồi! Tại sao khu rừng nơi Hằng Nga ngủ lại có rất nhiều đom đóm? Tại sao khi bấc đèn dầu vẫn sáng thì tên Hậu Nghệ kia chỉ gầm gừ? Chắc chắn không phải để đe dọa hay vờn con mồi, bởi lẽ ngay khi đèn vừa tắt thì hắn lập tức nhảy ra luôn như thể mất bình tĩnh vậy. Xong cả câu chuyện bắn mặt trời… Chẳng lẽ hắn sợ những đốm sáng?”
Nghĩ rồi, Bờm liền lập tức gom lá mục và mùn ẩm rồi rải chúng xung quanh chỗ Hậu Nghệ. Hậu Nghệ đang ngấu nghiến ăn phần thân dưới của chàng thanh niên kia thì bất chợt thấy một vài đốm sáng nhỏ lập lòe khiến hắn giật mình lùi lại. Rồi những đốm sáng ấy ngày một dày đặc và nhiều hơn. Đom đóm tụ tập quanh chỗ lá mục và mùn ẩm ngày càng nhiều. Hậu Nghệ thấy quá nhiều ánh sáng như vậy thì xù lông, gầm lên rồi lập tức bỏ chạy. Bờm nhân cơ hội này chạy tới vác lấy phần thân trên của chàng thanh niên mà chạy ra bờ rừng.
“Bác… Không cần cố đâu. Tôi… Không qua khỏi rồi!”
“Không! Đừng bỏ cuộc! Chắc chắn! Chắc chắn tôi sẽ cứu sống được cậu!”
“Ha… Không thể đâu. Mà này, sao con hổ tinh kia đột nhiên bỏ chạy vậy?”
“Cậu còn quan tâm đến cái chi tiết ấy để làm gì? Lo mà điều chỉnh hơi thở đi, tôi cầm máu rồi, cậu sẽ qua khỏi thôi”
“Bác… Nói cho mỗ biết đi… Mỗ… muốn thỏa trí tò mò trước khi chết”
“Gừ! Thôi được rồi! Tôi đoán con hổ ấy chính là sợ các nguồn sáng, nên nghĩ kế dụ đom đóm tụ tập ở đó, và nó hiệu quả. Lý do tôi nghĩ vậy dài lắm, cậu biết vậy là được!”
“Ha… Ha…”, chàng thanh niên cười, nụ cười yếu ớt phải cố nghiến lên từng tiếng, “Không ngờ con hổ to như vậy, lại chẳng có cốt cách gì, lại đi sợ đám đom đóm nhỏ bé. Ha… Quả là… Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm mà. Hay… Đến cuối đời rồi lại ngộ ra được điều tuyệt diệu như này, có chết không uổng…”
“Cậu bớt nói đi thì không chết đâu! Nói ít thôi!”
“Ha… Ha… Mỗ tự biết bản thân mà. Bác cho mỗ nhờ một việc”
“Cậu nói đi”
“Mỗ thấy… Bác vừa biết y học, vừa biết tính kế, chắc hẳn không phải một người bình thường. Mong bác… thay mỗ… Thi đậu làm quan, cống hiến cho đất nước”
“Được được! Tôi thi giúp cậu. Được chưa? Giờ thì cậu im lặng được chưa?”
“...”
“Này?! Tôi hỏi cậu im lặng được chưa? Thì trước khi im lặng cậu cũng phải trả lời chứ? Này?!”
Bờm quay người lại, đưa tay lên mũi chàng thanh niên. Chàng đột ngột ngã quỵ. Chàng thanh niên đã tắt thở. Bờm như muốn gào lên khóc, nhưng chàng biết không nên làm điều đó lúc này. Bờm lấy tay gạt ngang khóe mắt rồi lại vác chàng thanh niên tiếp tục chạy ra khỏi khu rừng. Sau khi chôn cất tạm chàng thanh niên kia ở một góc ngoài cổng làng, Bờm cúi đầu cám ơn anh ta rồi quyết chí thay anh ta thực hiện nguyện vọng của mình. Từ ngày hôm đó, từ sáng sớm đến tối khuya, Bờm nghiền ngẫm những cuốn sách mà chàng thanh niên mang theo người cùng những bài ca câu kệ trên chiếc quạt mo của mình.
Chỉ một năm sau đó, Bờm lúc này đã mười chín tuổi, một mình lên đường tiến tới kinh thành đi thi. Nhờ việc biết điểm yếu của Hậu Nghệ, Bờm dễ dàng băng qua khu rừng để tiến tới kinh thành. Đến kinh thành, Bờm tự nhận bản thân tên là Đỗ Kính Tu để đi thi. Đỗ là tên ngôi làng mà Bờm đã hại chết, chữ Kính có nghĩa là kính nhân, kính nghiệp, kính thần, hay tôn trọng mọi người, tận tâm với việc mình làm, có lòng tôn sợ trời đất, biết giới hạn của bản thân, chính là ba bài học đắt giá mà Bờm phải trải qua bao mất mát mới học được. Cuối cùng là chữ Tu, trong tu sửa, để luôn nhắc nhở bản thân còn nhiều khuyết điểm, phải luôn không ngừng tu dưỡng, đừng huênh hoang, kiêu ngạo. Và quả thực, người đã có tài còn biết trau dồi thì ắt kết quả không tầm thường, ngay lần thi đầu, Kính Tu đã đỗ kỳ thi võ, bốn năm sau đó đỗ đầu kỳ thi Tam giáo và được vua phong chức Hàn Lâm Viện Đại học sĩ kiêm Võ sư. Nhưng Kính Tu không hề huênh hoang hay tự đắc như những kẻ khác, chàng vẫn một mực quan tâm dân chúng và chuyên tâm phò tá vua. Tuy thi đỗ chức quan cao, Kính Tu hoàn toàn có thể mãn nguyện và tận hưởng vì mình đã làm tròn lời hứa với chàng thanh niên kia, nhưng Kính Tu một phần là muốn tiếp nối ý nguyện muốn được cống hiến đất nước của chàng thanh niên, một phần là muốn gây dựng một chỗ đứng vững mạnh để nhờ đó xin quân đi diệt Hậu Nghệ.
Sau khi đã có một chỗ đứng vững chắc trong giới quan trường, Kính Tu liền viết thư về hỏi thăm gia đình. Sau khi nhận được thư, Kính Tu nhận được toàn hung tin khiến chàng vừa đọc thư cũng phải bàng hoàng mà ngã ngửa ra đất. Ngay khi gia đình chàng vừa chạy trốn tới một ngôi làng nọ được ba ngày, còn đang bận rộn sắp xếp chỗ ở mới thì người được phái đi nghe tin về cha chàng cũng tìm tới nơi. Cha chàng, quả như dự đoán, đã tử trận trong trận chiến với Hậu Nghệ. Mẹ chàng cũng vì thế mà phát điên, chẳng nói chẳng rằng, dắt con ngựa trắng đẹp nhất nhà, rong ruổi cưỡi đi khắp nơi, gặp bất cứ ai cũng chắp tay nói:
“Kính mời quan viên đến dự đám cưới của em và chồng”
Dù người nhà có cố bắt trói lại thì chỉ cần hở ra một chút là bà sẽ lại bỏ trốn và cưỡi ngựa “đi mời quan viên hai họ”. Con gái thì phát điên, con rể tử trận ngoài chiến trường, đến cả cháu đích tôn cũng không còn tung tích, đến lượt bà ngoại của Kính Tu phát quẩn. Bà không còn quan tâm đến tiền bạc trong nhà, thậm chí còn cho rằng vì đống tài sản trong nhà nên gia đình bà mới gặp phải nhiều tai ương đến vậy. Vậy nên bà ngoại Kính Tu liền đem hết tài sản trong nhà ra để mà đổi lấy lá đa ngoài đường, coi như một dạng vứt tiền qua cửa sổ. Kính Tu hay tin thì vừa thấy giận lại vừa thấy thương, giận là giận Hậu Nghệ, giận chính bản thân, vì mối nhân quả phức tạp giữa hai người khiến cho cả gia đình Kính Tu phải chịu khổ. Còn thương là thương cho tất cả những người đã vì Kính Tu mà bị ảnh hưởng, tất cả mọi người không chỉ mỗi gia đình chàng. Kính Tu ôm lấy lá thư mà gào thóc giữa căn nhà năm gian khiến cho kẻ hầu người hạ đều lập tức chạy tới.
Kính Tu cho người đi đón người nhà về để dễ bề chăm sóc, phụng dưỡng. Tới khi giai nhân trong nhà giải tán hết, chàng nắm chặt bức thư trong tay, đôi mắt đỏ ngầu, thề rằng bản thân nhất định sẽ trả đủ cả vốn lẫn lời với Hậu Nghệ.