Thanh Trúc Và Thần Chú Khắc Nhập (Dẫn nhập)

Ảnh đại diện
Xuân Sang Tác giả mới

Dẫn nhập

Ngày xửa ngày xưa, đất Lĩnh Nam vào thời Hùng Vương thứ 18 (khoảng năm 300 TCN), ở thôn Chử Xá có chàng trai tên Chử Đồng Tử, nổi tiếng có đức hiếu sinh. Ban ngày, chàng lên rừng đốn củi, chiều tối lại ra đầm mò cua bắt ốc, xoay sở kiếm ăn để chăm sóc cho cha mẹ đã già. Khi cha mẹ mất, chàng thương cha mẹ nên trong nhà có gì cũng liệm theo, chỉ giữ lại cho mình một cái khố để mặc. 

Hùng Vương có cô con gái tên là Tiên Dung, đến tuổi cập kê mà vẫn chỉ thích ngao du sơn thủy, không chịu lấy chồng. Một hôm thuyền rồng của Tiên Dung đến thăm vùng Chử Xá. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy nghi trượng, Chử Đồng Tử hoảng sợ vội vùi mình vào cát lẩn tránh. Thuyền ghé vào bờ, Tiên Dung dạo chơi thấy cảnh đẹp nước trong, bèn sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngờ đâu đúng ngay chỗ của Chử Đồng Tử. Tiên Dung kinh ngạc bèn hỏi han sự tình, cảm động bởi đức hiếu thuận của chàng, nàng cho đây là ý trời bèn kết duyên vợ chồng.

Hùng Vương nghe chuyện thì giận dữ vô cùng, không cho Tiên Dung về cung. Nàng biết ý nên cùng chồng mở chợ, buôn bán làm kế sinh nhai. 

Một hôm, Chử Đồng Tử lên rừng hái lá thuốc, vô tình đi lạc vào sâu trong núi. Đang loay hoay tìm lối thoát thì thấy một con chim sẻ bị thương mắc vào mạng nhện. Chàng bèn cứu nó ra. Chim sẻ vui mừng cảm tạ rồi bay chỉ lối cho chàng về nhà. Nào hay con chim sẻ ấy là thú linh của Thái Bạch Kim Tinh.

Đêm ấy, Chử Đồng Tử nằm mộng thấy Thái Bạch Kim Tinh toạ trên mây trắng, nói rằng:

- Nhà ngươi có đức hiếu thuận, lại hiền lành tốt bụng với chúng sinh. Nay ta muốn ban cho ngươi phép Tiên để lên trời mà hưởng phước. Ý của ngươi thế nào?

Chử Đồng Tử vội quỳ xuống mà khấn rằng:

- Thưa Thần Tiên, con may mắn có người vợ hiền chịu bỏ hết vinh hoa phú quý mà chung sống. Nay không thể để cô ấy ở lại trần gian một mình. Xin nhường lại phước phần đó cho người xứng đáng.

Thái Bạch Kim Tinh bật cười, vuốt chòm râu bạc:

- Tốt lắm! Tốt lắm! Vậy thì ngươi hãy đem cô ấy cùng theo, ba hôm nữa đón ở núi Quỳnh Viên.

Nói xong Thái Bạch Kim Tinh biến mất, chỉ còn lại tiếng cười văng vẳng trong không gian.

Tỉnh giấc, Chử Đồng Tử đem mọi sự truyền lại cho vợ. Tiên Dung bèn khuyên chồng bỏ hết việc buôn bán, cùng chồng chu du tìm thầy học đạo. Cả hai lênh đênh trên thuyền ba ngày thì tới ngọn núi giữa biển tên là Quỳnh Viên sơn. Một cơn lốc xoáy bỗng thổi tới cuốn hai người bay lên trời. 

Chử Đồng Tử và Tiên Dung ở trên trời chăm chỉ học đạo phép. Cả hai đều thông minh sáng dạ, học một lại hiểu mười, chẳng bao lâu sau thì giác ngộ. 

Lúc bấy giờ Thái Bạch Kim Tinh mới hỏi hai người:

- Nay các con đã đắc đạo thành Tiên, có muốn ở lại nơi này để hưởng phép trường sinh cùng ta hay không?

Chử Đồng Tử và Tiên Dung nhìn nhau, rồi đồng lòng thưa rằng:

- Cảm tạ công ơn thầy dưỡng dục. Dưới trần gian bá tánh vẫn còn lầm than. Vợ chồng con mong được trở về để giúp dân cứu đời, truyền giảng luân thường đạo lý, mong cho bá tánh từ đây mà sống tốt hơn.

 Thái Bạch Kim Tinh nghe vậy thì bấm ngón tay xem đoán trước tương lai, rồi phán:

- Các con quả là có lòng bao dung bác ái hiếm thấy. Nhưng chúng sinh ngu muội không hiểu được đạo trời, ta e rằng các con chỉ tốn công vô ích. Nếu các con đã quyết như thế, thì ta cũng không can dự. Nay ta ban cho các con ba món bảo vật phòng thân, khi nào gặp đại hoạ thì có thể buông bỏ nhân gian mà về Trời.

Nói xong, Thái Bạch Kim Tinh trao cho vợ chồng Chử Đồng Tử một cái Nón quai thao, một cây Gậy phép và một quyển Sách ước. Chử Đồng Tử và Tiên Dung dập đầu ba lạy tạ ơn thầy rồi cùng nhau cưỡi mây bay về hạ giới.

dưới trần gian lúc ấy chỉ mới trôi qua hơn mười năm. 

Trên đường bay về, ngang qua một rừng tre, cả hai nghe thấy tiếng khóc rất đáng thương bèn đáp xuống. Bên bờ suối ngổn ngang các cây tre, một anh nông dân đang ngồi than thân trách phận. Chử Đồng Tử hoá thân là một ông lão râu tóc bạc phơ chống gậy đi tới hỏi:

- Này chàng trai, vì sao con khóc?

Chàng trai không ngừng khóc mà kể lể:

- Con lo việc hậu cần ở nhà phú ông từ nhỏ, con gái phú ông thương tình nên muốn lấy con làm chồng. Nhưng phú ông lại đòi sính lễ là một cây tre có một trăm đốt. Con đã đốn hạ từ sáng đến giờ mà không tìm thấy cây tre nào dài như thế. Thật là đen đủi cho con quá!

Chàng trai lại khóc to hơn. Chử Đồng Tử bật cười:

- Trên đời này làm gì có cây tre dài một trăm đốt? Chắc là con bị lão ấy gạt rồi. Hãy nhìn xem!

Chử Đồng Tử phất tay xuống dòng suối, hình ảnh phản chiếu hiện ra. Ở nhà phú ông đang tiếp đón một gia đình giàu có khác để bàn chuyện cưới xin cho con gái. Anh nông dân nhận ra sự tình, lại càng khóc to hơn.

Chử Đồng Tử ôn tồn khuyên nhủ:

- Ta có cách này, con hãy đi chặt đủ một trăm đốt tre đem về đây cho ta.

Anh nông dân vâng lời nghe theo. Rồi Chử Đồng Tử chỉ tay vào đống tre ấy mà đọc:

- Khắc Nhập! Khắc Nhập!

Tức thì một trăm đốt tre kết dính lại với nhau, nối dài thành cây tre trăm đốt.

Ông lại bảo anh nông dân hãy đọc:

- Khắc Xuất! Khắc Xuất!

Tức thì cây tre lại tách rời ra thành trăm đốt tre như trước. 

Anh  nông dân vui mừng cảm tạ Tiên Ông rồi gánh đống tre ra về. Về tới nơi, phú ông nuốt lời không nhận sính lễ. Chẳng cần trả lời lão, anh nông dân lẩm nhẩm đọc “Khắc nhập, khắc nhập”, tức thì phú ông bị dính ngay vào cây tre, không sao gỡ ra được. 

Phú ông ra sức van xin anh, lão hứa sẽ cho anh cưới ngay con gái lão và từ nay về sau không dám bày mưu lừa gạt anh nữa. Lúc bấy giờ anh nông dân mới đọc “Khắc xuất, khắc xuất”, tức thì phú ông rời ra khỏi cây tre. Anh nông dân cưới con gái phú ông làm vợ và hai người sống bên nhau rất hạnh phúc.

Chử Đồng Tử và Tiên Dung trở về căn nhà cũ ở thôn Chử Xá, hoá phép thành đồi núi, hang động, đón người vào giảng đạo thánh hiền, lại ban thuốc chữa bệnh cho dân. Chẳng bao lâu thì mọi người khắp nơi kéo về ấy sinh sống ngày một đông, hình thành một vùng buôn bán tấp nập, phồn thịnh, ai cũng kính thờ Tiên Dung và Chử Đồng Tử làm chúa.

Học trò tới bái sư mỗi lúc một nhiều, từ người phàm tới yêu ma đều được đón nhận bình đẳng như nhau. Chử Đồng Tử chia phép thuật thành năm môn, tương ứng với năm nguyên tố cấu tạo nên vạn vật: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Ai sinh ra có mệnh gì thì học phép ấy sẽ được bền lâu. 

Trong đám môn đồ của Chử Đồng Tử đặc biệt nổi bật hơn cả là: Tuấn - Người thông thạo phép dời non, mà sau này gọi là Sơn Tinh; Triều - Người thông thạo phép trị thuỷ, mà sau này là Thuỷ Tinh; và Chín anh em Hồ ly - Thông thạo điều khiển hoả công, mà sau này trở thành Cửu Vĩ Hồ.

Lại nhắc chuyện cây tre trăm đốt năm xưa. Gốc tre kỳ lạ được tạo ra bằng phép tiên đã mọc rễ bám sâu xuống lòng đất, lớn lên thành một cây tre to. Trải qua năm tháng, cây tre thần đã hấp thụ linh khí của nhật nguyệt, lâu dần hoá thành tinh. Tre Tinh cũng tìm tới hang của Chử Đồng Tử để bái sư xin được tu thành chánh quả. 

Chử Đồng Tử thấy chuyện này thật huyền diệu, phép thuật của ông đã vô tình tạo nên một sinh linh thuần khiết, điều mà chỉ có Đấng Sáng Thế mới làm được. Chử Đồng Tử quyết tâm nghiên cứu, sáng tạo và viết ra trọn vẹn một bộ sách, đặt tên là “Thần Chú Khắc Nhập”. Bộ phép sẽ giúp người luyện điều khiển tre hợp nhất biến hoá theo ý muốn. Cấp độ cao nhất của bộ phép này chính là hợp nhất năm nguyên tố trong vũ trụ. 

Ông bắt đầu truyền “Thần Chú Khắc Nhập” cho Tre Tinh, vì là hệ Mộc nên Tre Tinh học rất nhanh, chẳng mấy chốc đã di chuyển được cả một rừng tre. 

Tre Tinh chơi rất thân với Hồ Hạo, người anh cả trong đám Hồ ly. Mọi sự đang yên, thì bỗng một hôm Hồ Hạo tìm đến Tre Tinh hỏi rằng:

- Tôi nghe nói, Sư tổ dạy cho cậu mấy câu thần chú có thể hợp nhất mọi nguyên tố với nhau sao?

Tinh Tre khiêm tốn trả lời:

- À, chỉ là kết nối mấy đốt tre dính lại với nhau, để làm cái bàn cái chõng, dựng vách nhà tranh mà thôi, không thể sánh bằng các bộ phép khác.

Hồ Hạo bật cười:

- Tôi biết cậu xưa nay khiêm tốn. Nhưng chúng ta chơi thân với nhau chẳng lẽ cậu không thể trình diễn cho tôi xem một chút. 

Hồ Hạo bước ra bãi cỏ cầm những đốt tre lên, trầm ngâm hỏi:

- Những đốt tre này có thể kết lại với nhau thành cây tre, vậy cậu nghĩ thế nào nếu nhiều người có thể hợp nhất lại trong một thân xác?

Tinh Tre ngạc nhiên:

- Chuyện này… tôi chưa từng nghĩ tới. Nó không thể được.

Hồ Hạo lại cười:

- Sao lại không được, về cơ bản thì mỗi chúng ta khi sinh ra đã ứng với một nguyên tố trong vũ trụ. Có người mang mệnh Hoả, lại có người mệnh Thuỷ. Nếu bộ phép của cậu có thể hợp nhất các nguyên tố, thì việc hợp nhất người với người hay với bất cứ thứ gì… là điều có thể làm được!

Tinh Tre giật mình khi nghe những lời của Hồ Hạo, cậu thấy trong bộ óc ấy là một trí tuệ siêu phàm và trong ánh mắt ấy là một tham vọng không có điểm dừng. 

Tinh Tre có chút lo lắng nhìn lảng đi chỗ khác.

- Chà… Về mặt nguyên lý thì có vẻ đúng. Nhưng tôi chưa từng làm được các nguyên tố hợp nhất. Chắc chuyện này phải hỏi Sư Tổ để được khai sáng thêm.

Hồ Hạo lại hỏi:

- Cậu nghĩ vì sao chúng ta cần đan các thanh tre với nhau thành một bó?

Tinh tre đáp:

- Để nó trở nên bền chặt không thể bị bẻ gãy. Đó là bài học về sự đoàn kết.

Hồ Hạo lại hỏi:

- Vậy chúng ta hợp nhất sức mạnh và trí tuệ của nhiều người thành một, chẳng phải là để mạnh mẽ hơn, bảo vệ được nhiều người hơn, ấy cũng là sự đoàn kết đúng không?

Hồ Hạo giơ đốt tre lên trước mặt Tinh Tre vẫy vẫy.

- Nào hãy nghĩ một chút đi nào, hai chuyện này rất giống nhau. 

Tinh Tre nhìn đốt tre trên tay Hạo, suy nghĩ. Tinh Tre hỏi:

- Cậu có ý định gì sao?

Hạo thở dài, vứt mấy đốt tre xuống đất, rồi ngồi xuống một tảng đá nhìn về phía chân trời xa xăm, im lặng không nói gì. Trong ánh mắt Hạo chất chứa nỗi buồn dồn nén. Tinh tre cũng ngồi xuống bên cạnh. 

Hạo nói:

- Sau sự kiện ấy cha mẹ tôi đã mất. Cậu vẫn còn nhớ chuyện đó chứ…

Tinh Tre đáp:

- Tôi còn nhớ, tôi rất tiếc… chuyện ấy đã xảy ra nhiều năm rồi,... - dường như nhận ra điều gì đó, Tinh Tre bèn hỏi. - Chả nhẽ cậu định nhờ tôi gọi hồn cha mẹ cậu về nhập vào ai đó để nói chuyện? Phép của tôi không thể làm thế đâu!

Hạo nói:

- Không phải cái trò hầu đồng. Cậu hiểu nhầm ý tôi rồi. - Hạo thở dài lần nữa. -  Giờ chỉ còn lại chín anh em tôi sống nương tựa vào nhau côi cút. Dân làng vẫn luôn rình rập săn đuổi, tôi sợ tai họa sẽ đến với các em tôi bất cứ lúc nào…

Hạo quay sang nhìn Tinh Tre:

- Chúng tôi không muốn bị chia cắt nữa. Cậu có thể giúp chúng tôi trở thành Một!

Tinh tre nhìn Hạo.

Không lâu sau trong vùng xuất hiện một con yêu quái khổng lồ, có thân là Hồ ly, nhưng có tới chín cái tai, chín mắt và chín cái đuôi. Dân làng gọi là Cửu Vĩ Hồ. Nó phát điên, tàn sát dân chúng quanh vùng vô cùng dã man. Lửa hận thù của nó thiêu rụi nhà cửa, ruộng đồng, rừng núi. 

Hùng Vương thứ 18 nghe tin có yêu quái xuất hiện tức tốc cử quân tới đánh, nhưng không thể ngăn cản. Ngài tuyệt vọng chạy ra bờ biển mà gào to rằng:

- Bố ơi! Sao không lại cứu chúng tôi!

Tức thì cuồng phong nổi dậy, Lạc Long Quân - Tổ Tiên của người dân đất Lĩnh Nam, từ dưới biển bay lên nhằm thẳng về phía Cửu Vĩ Hồ mà đánh. 

Trận đánh kinh thiên động địa, cây rừng gãy đổ như ngả rạ. Đất đai nóng chảy, sâu bọ trốn sâu dưới vài trăm mét đất cũng chết. 

Trong lúc ấy, Tre Tinh cũng chạy tới yểm trợ. Cậu hóa phép dựng lên các thành lũy bằng tre để nhân dân trú ẩn, nhờ vậy mà mọi người được bảo vệ khỏi chiến trận. 

Đức Long Quân giao chiến dữ dội với Hồ Tinh. Suốt chín ngày chín đêm thì phong ấn được tám mảnh hồn của nó vào quả trứng tiên. Xác của nó rơi xuống mặt đất tạo thành một cái hồ lớn, gọi là Hồ Xác Cáo (Hồ Tây ngày nay). Nhưng một tàn hồn của nó đã kịp tách ra bay tản mác trong nhân gian. 

Trước khi biến mất nó nguyền rủa với Đức Long Quân rằng: “Rồi đây ta sẽ khiến con cháu các ngươi nghi kỵ lẫn nhau. Huynh đệ sẽ tương tàn, thầy trò sẽ phản bội. Chúng sẽ tự tay phá bỏ di sản mà ngươi đã gây dựng và coi đó là vinh quang. Chúng sẽ căm ghét chính tổ tiên của mình! Chia rẽ, mãi mãi bị chia rẽ…!”

Sau khi lập công, Tre Tinh được Lạc Long Quân sắc phong thành Tiên, cai quản rừng tre quanh vùng ấy, ban cho áo mũ, từ nay về sau đời đời bảo vệ xóm làng.

Đức Long Quân trở về biển cả. Hùng Vương vẫn chưa hết tức giận. Có người báo rằng con yêu quái ấy đến từ thôn Chử Xá, chính là môn đồ của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. 

Hùng Vương cho là con gái đang có ý tạo phản, liền xuất binh đi đánh. Quân nhà Vua sắp đến, các môn đồ xin ra chống cự nhưng Tiên Dung khuyên chồng hãy cùng rời bỏ nhân gian, không kháng cự cha mình, để cho quốc thái dân an. Chử Đồng Tử nghe theo. 

Trước khi cùng vợ quy ẩn, ngẫm thấy “Thần Chú Khắc Nhập” thật nguy hiểm, Ngài định tiêu huỷ nó, nhưng lại thấy tiếc tri thức, vì xét cho cùng tri thức không có tốt hay xấu mà phụ thuộc vào người dùng nó. 

Cân nhắc kỹ, Ngài bèn làm chú ẩn đi một nửa quyển sách, chỉ giữ lại phần kết dính các đốt tre. Cứ để thuận theo nhân duyên, nếu sau này ai đó khai mở được phần ẩn ấy thì hẳn là ý Trời.

Sau đó, Ngài tập hợp các môn sinh lại mà bảo:

- Duyên phận của ta với nhân gian đã hết. Nay các ngươi, ai đến từ đâu hãy trở về ấy mà sinh sống. Phải luôn nhớ rằng sức mạnh lớn nhất là tình yêu thương và tấm lòng bác ái. Ta sẽ vẫn dõi theo các ngươi từ trên trời cao.

Nói xong Ngài trao lại Gậy phép và Sách ước cho Tuấn (Sơn Tinh), dặn dò chỉ dùng khi cấp bách. Ngài đi qua Tinh Tre, giờ đã là Tiên, đặt tay lên vai cậu không nói gì, như một cử chỉ tha thứ. Tiên tre lặng im hiểu ý thầy.

Xong đâu đấy, Chử Đồng Tử cùng vợ đội Nón quai thao mà biến mất. Các môn đồ đều dập đầu từ biệt.

Trời tối, quân nhà Vua đóng quân ở bãi cát cách đó một con sông. Đến nửa đêm bỗng nhiên bão to gió lớn nổi lên, hang động, đồi núi phút chốc bay lên trời. Chỗ nền đất cũ bỗng sụp xuống thành một cái đầm rất lớn.

Nhân dân cho đó là điều linh dị bèn lập miếu thờ, bốn mùa cúng tế, gọi đầm ấy là Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm) và gọi Ngài là Chử Đạo Tổ.

Còn lại: 5