Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Thái Tông Trần Cảnh là vị vua khai mở Trần triều, được ca ngợi là ông vua xuất sắc đã lãnh đạo quân dân Đại Việt giành chiến thắng trước Đế chế Mông Cổ trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất. Vua đã sinh thành và dưỡng dục nên thế hệ lãnh đạo kiệt xuất của dòng máu Đông A anh hùng, đó chính là vua Trần Thánh Tông, Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật và các danh tướng tiếp tục thêm hai lần chiến thắng quân Nguyên Mông khiến cho nhà Nguyên hoàn toàn từ bỏ ý đồ xâm lược Đại Việt. Các con trai vua là quân vương, là trang anh hùng, tài năng, oai phong lẫm liệt, vậy còn những người con gái của vua thì thế nào? Bài viết này gửi tới bạn một vài thông tin mình lượm lặt được trong chính sử và từ thần tích về những nàng công chúa của vua Trần Thái Tông.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/fcc86313c9c478148a9498550f0d3cba37a943c106b1b2ae9708846fc27bd352.jpg"alt="19. Nhung nang cong chua cua vua Tran Thai Tong.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Thái Đường Trưởng công chúa</i></b><b><i>, nàng công chúa sớm mồ côi</i></b><b><i> mẹ</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trưởng công chúa Thái Đường là vị công chúa không được nhắc đến trong chính sử mà thông tin về nàng được nhắc trong Ngọc phả và ghi ở thần tích của Đền Miễn Hoàn (xã Đại Thắng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Theo thần tích Công chúa Thái Đường là đích nữ, con thứ ba của vua Trần Thái Tông và Thuận Thiên hoàng hậu (em của vua Trần Thánh Tông và Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải). Bởi vậy mà bà được xem là Trưởng công chúa của vua.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo tư liệu này, sau khi sinh công chúa ít lâu thì Thuận Thiên hoàng hậu qua đời năm 1248 khi mới chỉ 33 tuổi thành thử Thái Đường công chúa đã sớm mồ côi mẹ khi còn thơ bé. Từ năm 1253 vó ngựa Mông Cổ đã lật đổ nước Đại Lý (Vân Nam) áp sát nước ta, tới tháng 12 âm lịch năm 1257 tướng Ngột Lương Hợp Thai dẫn theo 3 vạn quân xâm lược Đại Việt. Thực hiện kế “vườn không nhà trống”, nàng công chúa chưa tròn 10 tuổi đã phải theo chân bà ngoại Linh Từ Quốc mẫu di tản khỏi Thăng Long về Hoàng Giang (Ninh Bình) lánh nạn. Lớn lên trong thời buổi chiến tranh đó hẳn là công chúa phải chịu nhiều thiệt thòi, vất vả.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Khi trưởng thành, vua Trần Thái Tông gả Công chúa cho Hầu tước Vũ Tỉnh ở Lục Ngạn, xứ Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Giang). Công chúa sinh được một người con trai là Vũ Thành. Hầu tước Vũ Tỉnh qua đời, Công chúa một mình nuôi con khôn lớn, ăn học thành tài, thay cha cai quản miền Lục Ngạn. Được sự dạy bảo của mẹ, kế nghiệp cha, Vũ Thành một mặt chiêu tập dân nghèo mở rộng thái ấp và đại điền trang vùng Lục Ngạn, mặt khác tổ chức đội dân binh, tích trữ lương thảo, luyện tập võ nghệ, bảo vệ an ninh vùng biên giới phía Đông Bắc. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ 3 (1288), đội dân binh của Vũ Thành giỏi đánh du kích nên đã lập công lớn ở trận Nội Bàng, chặn đường Thoát Hoan chốn chạy. Với công lao này, vua Trần Nhân Tông đã phong Vũ Thành là Trung dũng hầu Đại tướng quân. Tiếc thay Trung Dũng hầu đã anh dũng hy sinh trong trận chiến đấu ngăn chặn giặc Nguyên - Mông xâm lược tại Lục Ngạn năm 1288. Khi chồng và con không còn nữa, Công chúa Thái Đường về trông coi thái ấp cho anh là Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thiên hạ thái bình, Công chúa Thái Đường đã chiêu tập dân phiêu tán cùng với gia nhân đến vùng ven sông Đào, thôn Bắc Hà, xã Đô Liệu (nay là thôn Thi Liệu, xã Đại Thắng, huyện Vụ Bản) khẩn hoang lập điền trang với hy vọng vừa lập chốn an cư mới, vừa vơi bớt nỗi đau mất chồng con. Nội dung văn bia soạn khắc năm Mậu Dần, triều vua Bảo Đại 13 (1938) tại đền Miễn Hoàn có đoạn: <i>“…Công chúa thấy vùng thôn Bắc Hà, xã Thi Liệu, đất đai phì nhiêu mà dân cư thưa thớt, nên cho gia nhân đến đó lập trại, một mặt khai khẩn ruộng đất, mặt khác chiêu tập dân cư. Chỉ trong mấy năm đã làm nên ruộng tốt trên trăm mẫu đất, dân số tăng thêm trên năm chục người…”.</i>&nbsp;Công chúa còn hào phóng cho phép gia nô được khai hoang thêm ruộng để làm của riêng. <i>“…Khi Công chúa mắc lỗi, nhà vua ra lệnh thu ruộng đất đó làm quan điền. Về sau lại có chiếu chỉ ra lệnh miễn tội hoàn đất. Công chúa bèn cho dân làm ruộng chung”</i>.&nbsp;Vì vậy, đất ấy có tên là Miễn Hoàn. Công chúa lấy 36 mẫu trong số đất ấy cúng vào chùa Hộ Xá, số còn lại chia cho dân sở tại làm ruộng công để cày cấy, lấy hoa lợi sắm lễ vật phụng sự tại chùa. Cảm kích trước tấm lòng thương dân của Công chúa, nhân dân gọi số đất đó là&nbsp;“ruộng bà Quốc Mẫu”. Sau khi Thái Đường công chúa mất, người dân lập đền thờ bà trên điền trang Miễn Hoàn xưa, nay là xã Đại Thắng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể thấy rằng, số mệnh người con gái đầu tiên của vua Trần Thái Tông gặp phải nhiều long đong lận đận. Là Trưởng công chúa cành vàng lá ngọc nhưng nàng đã sớm chịu cảnh mồ côi. Mang thân phận cao quý nhưng sống trong thời chiến tranh, nàng gặp phải nỗi đau mất chồng mất con, mất đi chỗ dựa lớn nhất của nữ nhân thời phong kiến. Nhưng nàng vẫn kiên cường sống tiếp, sống thay cả phần cho phu quân và con trai khi đất nước hoà bình. Nàng thực hiện chiếu chỉ triều đình chiêu tập nhân dân khai khẩn đất hoang lập thành thái ấp tạo chốn an cư lạc nghiệp cho dân nghèo. Khi điền trang bị thu hồi, công chúa không oán thán, lúc triều đình trả lại công chúa đem tặng người dân mà chẳng giữ lại làm tài sản riêng mình. Có thể nói tuy là phận nhi nữ lại lận đận long đong nhưng Thái Đường trưởng công chúa cũng mang trong mình tinh thần chiến binh mạnh mẽ, phong thái hào sảng, khoáng đạt và lòng yêu nước thương dân chẳng kém những người anh em trai của mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Thiều Dương công chúa: người con gái đoản mệnh</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn viết vào năm 1277: <i>“Ngày thượng hoàng băng , công chúa Thiều Dương (con gái thứ của thượng hoàng tên là Thúy) đương ở cữ, chợt nghe tiếng chuông đánh liên hồi, nói rằng: “Có lẽ thượng hoàng mất chăng!”. Những người hầu cận nói dối, nhưng không nghe, công chúa cứ thương khóc kêu gào, mắt mờ đi rồi chết. Trước đây thượng hoàng không khỏe, công chúa bấy giờ đã lấy Thượng vị hầu Văn Hưng rồi, thường thường sai người đến thăm hỏi, những người hầu cận đều trả lời là thượng hoàng đã bình phục vô sự. Đến khi nghe tiếng chuông, thương khóc kêu gào mãi rồi chết. Người trong nước ai cũng thương”.</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chính sử chỉ có một vài thông tin ít ỏi về Thiều Dương công chúa và không ghi rõ thân mẫu của công chúa là ai. Xét theo tuổi tác của công chúa mất khi đang ở cữ thì mẹ của nàng là thứ phi của vua Trần Thái Tông, bởi lẽ Thuận Thiên hoàng hậu đã qua đời từ năm 1248. Từ câu chuyện công chúa thương khóc phụ hoàng đau lòng quá độ mà qua đời, ai ai cũng xót xa và cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của nàng. Một người phụ nữ vừa mới sinh con đang ở cữ thân thể còn chưa hồi phục lại gặp phải nỗi đau mất cha, nỗi day dứt thân là con mà chẳng thể có mặt bên phụ hoàng vào giây phút cuối cùng. Có lẽ nỗi đau tinh thần quá đột ngột và quá lớn đã làm cơ thể nàng gục ngã. Công chúa ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ, để lại đứa con thơ lâm cảnh mồ côi, để lại nỗi tiếc thương cho những người ở lại và một sử tích ngàn đời về người con gái “đại hiếu” của vua Trần Thái Tông.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày nay, công chúa Thiều Dương được thờ tại ngôi miếu ở thôn Nứa, xã Liên Hiệp, Hưng Hà, Thái Bình (cũ) tương truyền là vùng đất thái ấp của công chúa khi xưa. Ngôi miếu nhỏ bé có tuổi đời 700 năm nằm nép dưới cây đa cổ thụ, trên gò đất là nơi gặp nhau của hai con lạch, một bắt nguồn từ Nhật Tảo và một bắt nguồn từ Lưu Xá. Trong miếu Nứa hiện còn có đôi câu đối:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>"Kính thiên hiếu khốc danh tại sử<br></i><i></i><i>An Nữ ân thâm thuỵ vĩnh tường"<br></i>có nghĩa là:<br><i>"Tiếng khóc thương vua tên ghi trong sử<br></i><i>Ơn sâu thương dân An Nữ còn thơm mãi đến muôn đời"</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Thuỵ Bảo công chúa, hai lần goá bụa</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1277 là một năm đầy mất mát nhất với hoàng thất nhà Trần. <i>“Bấy giờ Uy Văn Vương Toại lấy con gái của Thượng hoàng là công chúa Thuỵ Bảo. Uy Văn ham học hay thơ, tự hiệu là Sầm Lâu, có Sầm Lâu tập lưu hành ở đời. Vua (tức Trần Thanh Tông) từng hỏi chữ “quan gia” nghĩa là gì, Uy Văn trả lời: “Năm đời đế lấy thiên hạ làm của công (quan), ba đời vương lấy thiên hạ làm của nhà (gia) cho nên gọi là “quan gia”. Vua khen là người kiến thức rộng. Không may chết non (chết năm 24 tuổi), người nước ai cũng tiếc” (Trích Đại Việt sử ký toàn thư)</i><i></i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vậy là chỉ trong một năm, Thuỵ Bảo công chúa lần lượt mất đi cả phụ hoàng, hoàng tỷ cùng mẹ và phu quân của mình. Nỗi bi ai này thật khiến người đời thương xót. Công chúa Thuỵ Bảo goá bụa khi còn quá trẻ lại chưa con cái.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Một thời gian sau, dưới vua Trần Nhân Tông có dũng tướng Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng cũng không may goá vợ lâm cảnh “gà trống nuôi con”. Bảo Nghĩa hầu phu nhân mất sớm, để lại người con gái nhỏ Chiêu Hiến Quận chúa. Vua bèn tác hợp đem công chúa Thuỵ Bảo gả cho Trần Bình Trọng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tiếc thay, trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2, năm 1285, Trần Bình Trọng giao cho trọng trách giữ vùng Đà Mạc - Thiên Mạc, ngăn chặn truy binh và cầm chân quân Nguyên, đảm bảo cho bộ chỉ huy quân kháng chiến rút lui an toàn và bí mật. Do sự chênh lệch quá lớn về quân số, quân Đại Việt thất bại, Trần Bình Trọng bị bắt nhưng ông và quân lính của mình đã hoàn thành nhiệm vụ ngăn chặn truy binh để bộ chỉ huy rút lui an toàn. Sau khi bắt được Trần Bình Trọng, tướng Nguyên tìm mọi cách để khai thác thông tin, từ tra tấn, dọa nạt, đến dụ dỗ, chiêu hàng. Tuy nhiên, Trần Bình Trọng kiên quyết không khuất phục và không hé nửa lời về hướng đi của quân chủ lực. Không thể chiêu hàng Trần Bình Trọng, quân Nguyên buộc phải giết ông vào năm 1285, lúc đó ông mới chỉ 26 tuổi, để lại câu nói bất hủ <i>“Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. </i>Tới tháng 6 năm 1285 quân Đại Việt toàn thắng, hai vua Trần trở lại kinh sư, Trần Bình Trọng có công hộ giá, hy sinh vì nước được nhà vua truy phong tước Bảo Nghĩa Vương.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Một lần nữa, Thuỵ Bảo công chúa lâm vào cảnh goá bụa, một mình nuôi con chồng. &nbsp;Công chúa nén đau thương, dốc lòng nuôi dạy Chiêu Hiến Quận chúa nên người. Trải qua 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, đất nước được thái bình. Về sau khi vua Trần Anh Tông lên ngôi đã tuyên Chiêu Hiến Quận chúa vào cung lập làm Huy Tư Hoàng phi. Huy Tư Hoàng phi là mẹ sinh vua Minh Tông Trần Mạnh và khi Trần Mạnh kế vị, được tôn làm Huy Tư Hoàng thái phi rồi được truy phong làm Chiêu Từ Hoàng thái hậu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau khi Huy Tư Hoang phi sinh ra Hoàng thái tử Trần Mạnh, Công chúa Thụy Bảo cảm thấy mình đã hoàn thành nghĩa cử đối với phu quân quá cố Trần Bình Trọng, nên quyết định xuất gia nương nhờ cửa Phật, tu hành giải thoát những phiền muộn của cuộc đời hai lần góa bụa. Công chúa về thôn Tiền ở phía Tây núi Hổ huyện Thiên Bản (Vụ Bản, Nam Định cũ) khai khẩn đất hoang tạo thành khu vườn hoa tươi tốt, coi đây là nơi nghỉ ngơi yên vui cuối đời, nên đặt tên là Vườn hoa An Lạc (An Lạc hoa viên). Mười năm sau, Huyền Trân Công chúa ở Chiêm Thành về, cũng chọn núi Hổ làm nơi tu hành, lập chùa Nộn, lấy hiệu là Hương Tràng ni sư. Hai Công chúa giúp dân khai phá vùng bãi biển Côi Sơn thành điền trang, vừa đem lại cảnh trù phù của làng quê. Khi Công chúa Thụy Bảo viên tịch, nhân dân xây bảo tháp ngay trong vườn An Lạc và chuyển chùa, lập đền thờ Công chúa ngay giữa làng. Thần vị tại đền Công chúa Thụy Bảo ghi: <i>"Trần Triều tông thất phu nhân liệt tiết vương mẫu ni sư truy phong yểu điệu trinh thục Thụy Bảo Công chúa vị tiền"</i>. Đền còn phả ký viết trên bảng son có niên đại Khải Định thứ 4 (1920), có đoạn ghi công tích của bà<i>:"Bà có công nuôi ẵm và phò Nhân Tông lên ngôi… Bà vui vẻ trở về đi tu, đắc đạo thành tiên vậy. Chúa là con vua Trần Thái Tông, là cô của vua Trần Nhân Tông, ngoại tổ mẫu của vua Trần Minh Tông."</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>4.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>An Tư công chúa, công chúa hoà thân hy sinh vì Đại Việt</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 1 năm 1285, 50 vạn quân Nguyên Mông do Trấn Nam Vương Thoát Hoan, con trai của Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt, thống lĩnh, chia làm hai cánh tấn công xâm lược Đại Việt. Quân Nguyên Mông là đạo quân cực kỳ thiện chiến đã từng càn quét khắp lục địa Á-Âu và nhanh chóng chiếm ưu thế tuyệt đối trước quân dân Đại Việt (chỉ có khoảng 30 vạn binh). &nbsp;Trước sức tấn công ồ ạt của quân Nguyên, Vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Trần Thánh Tông quyết định rút khỏi Thăng Long, lui về Thiên Trường (Nam Định). Đại Việt sử ký toàn thư ghi<i>:"Tháng 2 (Ất Dậu)... Sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan, là muốn làm thư giãn loạn nước vậy."</i> Và đó là dòng duy nhất trong chính sử nhắc tới An Tư công chúa. Tới tháng 5 năm 1285&nbsp; quân Đại Việt bắt đầu phản công, quân Nguyên đại bại. Trấn Nam vương Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt đã phải chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy về Bắc. Tháng 6, ca khúc khải hoàn, hai vua trở lại kinh sư làm lễ tế lăng miếu, khen thưởng công thần, nhưng không ai nhắc đến An Tư công chúa, không rõ công chúa còn hay mất. “<i>Trong chiến công này rõ ràng là có sự đóng góp của công chúa An Tư, người đã hy sinh vì nạn nước.” </i>Nhưng ngày luận công nàng lại không được nhắc đến.<i> &nbsp;</i>Điều này đã khiến hậu thế cảm thương cho số mệnh hồng nhan bạc phận của An Tư công chúa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Bên cạnh đó, có không ít giả thuyết cho rằng An Tư là người ngoài hoàng tộc họ Trần, được phong làm công chúa để phục vụ mục đích chính trị gả cho người Nguyên. Giả thuyết này xuất phát ở việc khi đề nghị hòa thân, các triều đại phong kiến thường lấy người trong họ, thậm chí là dân nữ có nhan sắc hay biệt tài để phong công chúa rồi gả cho nhân vật cần liên hôn, chứ ít khi là Hoàng nữ thật sự (như Vương Chiêu Quân thời Hán, Văn Thành công chúa và Nghi Phương công chúa thời Đường). Người viết cho rằng, giải thuyết này có phần hợp lý. Và nếu đúng như vậy thì việc không nhắc tới kết cục của An Tư công chúa rất có thể lại là cánh cửa để ngỏ cho người con gái ấy rút khỏi vai trò “công chúa hoà thân”, trở lại thân phận trước đây của mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong chương trình phim tài liệu Thăng Long Nhân Kiệt được phát sóng nhằm kỷ niệm 1000 năm Thăng Long trên đài VTV, An Tư công chúa được liệt vào thứ 18 trong 100 vị vĩ nhân mà chương trình gọi là <i>"Nàng công chúa nhỏ bé lá ngọc cành vàng, trở thành vật hy sinh cho nền độc lập dân tộc". </i>Cho dù số mệnh của An Tư công chúa ra sao, xuất thân của nàng thế nào thì nàng vẫn là bậc nữ trung hào kiệt, xứng đáng được tôn vinh ngàn đời, lưu danh muôn thưở trong lòng hậu thế.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>5.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>Ứng Thuỵ công chúa Lê Ngọc Khuê, nàng công chúa không mang họ Trần</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn: <i>“công chúa Chiêu Thánh ở với Lê Phụ Trần hơn 20 năm sinh được hai người con là Thượng vị hầu Lê Tông và Ứng Thuỵ công chúa Lê Ngọc Khuê.”</i><i> </i>Theo đó, Ứng Thuỵ công chúa là con gái của công chúa Chiêu Thánh (Lý Chiêu Hoàng), người vợ cũ mà vua Trần Thái Tông đem gả cho Bảo Văn hầu Lê Phụ Trần (Lê Tần) năm 1258. Mẹ là công chúa, cha chỉ mang tước hầu, ấy vậy mà Lê Ngọc Khuê lại được sắc phong Ứng Thuỵ công chúa còn anh trai nàng được phong là Thượng vị hầu, tương đương với tước dành cho các con của Vua và Vương trong hoàng tộc họ Trần. Người viết mạo muội suy đoán rằng, rất có thể lúc đó chính Thượng hoàng Trần Thái Tông đã nhận hai con của Lê Tần và Lý Chiêu Hoàng làm nghĩa tử, nghĩa nữ nên mới có tước phong như thế. Thành thử, Ứng Thuỵ công chúa Lê Ngọc Khuê trở thành một trong số hiếm hoi những nàng công chúa không mang họ Trần trong triều đại Đông A, người còn lại chính là mẹ của nàng - Chiêu Thánh công chúa Lý Thiên Hinh (bị giáng từ Hoàng hậu xuống thành Công chúa năm 1237). Sử sách không chép rõ nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đồng thuận Thượng vị hầu Lê Tông- anh trai nàng, sau này được ban quốc tính, chính là danh tướng Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng và cũng là ông ngoại của vua Trần Minh Tông.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo tài liệu "Lý Chiêu Hoàng - Một đời sóng gió" của Lê Thái Dũng, về sau Ứng Thuỵ công chúa Lê Ngọc Khuê được vua gả cho Trạng nguyên Trần Cố, người xã Phạm Triền, huyện Thanh Miện, phủ Hạ Hồng (tỉnh Hải Dương cũ, nay là Hải Phòng). Trần Cố đỗ Kinh trạng nguyên khoa Bính Dần, năm Thiệu Long thứ 9 (1266), đời vua Trần Thánh Tông cùng khoa với Trại trạng nguyên Bạch Liêu. Ông được vua trọng dụng, làm quan đến chức Hiến sát sứ, đứng đầu Hiến ty- cơ quan điều tra xét xử. Như bao người Đại Việt thời đó, công chúa cũng trải qua 2 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 (năm 1285) và thứ 3 (1287-1288) đầy khó khăn gian khổ và toàn thắng oai hùng. Người viết không tìm được thêm tư liệu về nàng, mong rằng Ứng Thuỵ công chúa Lê Ngọc Khuê có hậu vận viên mãn khi trở thành phu nhân của quan đại thần.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">&nbsp;Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng là vị danh tướng Trần triều được nhiều đời ca ngợi là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần kiên cường bất khuất, “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của dân tộc Việt Nam ta. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 (năm 1285) ông đã anh dũng hy sinh trên chiến trường Thiên Mạc, bị giặc bắt không đầu hàng, giặc dụ dỗ chiêu hàng ông dõng dạc tuyên bố&nbsp;<i>“Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”</i>. Vị dũng tướng thời đại Đông A bị giặc giết khi tuổi đời còn rất trẻ (26 tuổi) và công cuộc kháng chiến còn dang dở nhưng khí phách anh hùng, hiên ngang lẫm liệt cùng câu nói bất hủ của ông mãi lưu danh muôn thưở.&nbsp;&nbsp;</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/823b0a36f32cda3a151ab4b2fcabd6ec461f28586bacf7fdd23ce4dd604bbf46.jpg"alt="18. Tran Binh Trong.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Bảo Nghĩa Hầu: Thân thế hiển hách, dòng dõi Hoàng tộc</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đại Việt sử ký toàn thư chép: <i>“Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng là dòng dõi Lê Đại Hành”, “ông cha làm quan ở đời vua Trần Thái Tông, được ban quốc tính là họ Trần”. </i>Tuy chưa tìm được tư liệu khẳng định chắc chắn, song đối chiếu với các nhân vật và sự kiện xảy ra dưới thời vua Trần Thái Tông, hầu hết các sử gia nhận định Trần Bình Trọng là con của Bảo Văn hầu Lê Phụ Trần (Lê Tần) và mẹ ông chính là Nữ đế Lý Chiêu Hoàng, bấy giờ mang tước vị Chiêu Thánh công chúa được vua Thái Tông gả cho Lê Phụ Trần năm 1258. Như vậy về nội tộc, ông là dòng dõi vua nhà Tiền Lê, về ngoại tộc ông là con trai Nữ đế Lý triều, là hậu duệ của vua nhà Lý.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Toàn thư chép <i>“công chúa Chiêu Thánh ở với Lê Phụ Trần hơn 20 năm sinh được hai người con là Thượng vị hầu Lê Tông và Ứng Thuỵ công chúa Lê Ngọc Khuê.” </i>&nbsp;Liên kết các thông tin này lại thì Trần Bình Trọng chính là Thượng vị hầu Lê Tông và ông có một người em gái là Ứng Thuỵ công chúa Lê Ngọc Khuê. Theo chế độ phong tước thời vua Trần Thái Tông Toàn thư có đoạn “<i>Năm Tân Sửu (1241) hoàng tử thứ ba là Quang Khải sinh, là em cùng mẹ với thái tử Hoảng, Quốc Khang là anh trưởng, sau đều phong Đại vương; thứ nhất Nhật Vĩnh, Ích Tắc, Chiêu Văn đều phong vương; rồi các con thứ nữa thì phong Thượng vị hầu.Con trưởng của các vương thì phong vương, các con thứ thì phong Thượng vị hầu, lấy làm chế độ vĩnh viễn</i>”. Ấy vậy mà con trai của Lê Phụ Trần (người chỉ mang tước hầu) lại được phong là Thượng vị hầu, con gái được phong Ứng Thuỵ công chúa, tương đương với tước vị dành cho con của vua và vương. Người viết mạo muội suy đoán rất có thể là Thượng hoàng Trần Thái Tông đã nhận hai anh em Lê Tông, Lê Ngọc Khuê làm nghĩa tử, nghĩa nữ nên mới có tước phong như vậy và Lê Tông đã được ban Quốc tính với tên Trần Bình Trọng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Xét theo quan hệ họ hàng thì ông là em họ của vua Trần Thánh Tông, Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải và Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang (gọi Lý Chiêu Hoàng là dì ruột). Ông cũng là em họ của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn bởi bà ngoại của Trần Bình Trọng chính là Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung và là em gái của ông nội Trần Quốc Tuấn (tức Thái Tổ Trần Thừa). Bảo Nghĩa hầu còn là anh họ của Trần Khánh Dư, mẹ ông Lý Chiêu Hoàng là chị cùng mẹ khác cha với Trần Phó Duyệt (con trai Trần Thủ Độ, cha của Trần Khánh Dư). Có thể thấy Trần Bình Trọng có mối quan hệ họ hàng với hầu hết các nhân vật nổi tiếng thời kỳ đầu triều đại nhà Trần.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Bình Trọng sinh năm 1259 cùng lứa tuổi với vua Trần Nhân Tông (sinh năm 1258), cha ông Lê Phụ Trần từng là Thiếu sư kiêm Sừ cung giáo thụ tức là thầy dạy vua Trần Nhân Tông khi còn là Thái tử. Có xuất thân như vậy, hẳn nhiên ông được nuôi dạy bởi người cha văn võ toàn tài, trung thần hàng đầu nên sớm bộc lộ tài năng, đức độ và được hai vua (Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông) yêu mến, tin cậy.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Bậc anh hùng trung quân ái quốc: “Thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 1 năm 1285, 50 vạn quân Nguyên Mông do Trấn Nam Vương Thoát Hoan, con trai của Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt, thống lĩnh, chia làm hai cánh tấn công xâm lược Đại Việt. Quân Nguyên Mông là đạo quân cực kỳ thiện chiến đã từng càn quét khắp lục địa Á-Âu và nhanh chóng chiếm ưu thế tuyệt đối trước quân dân Đại Việt (chỉ có khoảng 30 vạn binh). &nbsp;Sau thất bại trong vài trận đánh mở màn, tổng tư lệnh quân Đại Việt lúc bấy giờ là Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn quyết định lui quân về giữ Vạn Kiếp (nay thuộc vùng Vạn Yên, Chí Linh, Hải Dương). Quân Đại Việt tiếp tục rút lui về Thăng Long, nhưng cũng không giữ được trước sức tấn công ồ ạt của quân Nguyên. Hưng Đạo Vương quyết định rút khỏi Thăng Long, lui về Thiên Trường (Nam Định). Trần Bình Trọng được Hưng Đạo Đại Vương và Lưỡng cung (tức hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông) giao cho trọng trách giữ vùng Đà Mạc - Thiên Mạc, ngăn chặn truy binh và cầm chân quân Nguyên, đảm bảo cho bộ chỉ huy quân kháng chiến rút lui an toàn và bí mật.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Bảo Nghĩa hầu lãnh đạo khoảng 600 binh tổ chức cuộc đánh chặn ngay tại bãi Thiên Mạc với quyết tâm tử thủ. Do sự chênh lệch quá lớn về quân số, quân Đại Việt thất bại, Trần Bình Trọng bị bắt nhưng ông và quân lính của mình đã hoàn thành nhiệm vụ ngăn chặn truy binh để bộ chỉ huy rút lui an toàn. Trận đánh này là một thắng lợi cực kỳ quan trọng về mặt chiến lược với cuộc kháng chiến, kể từ khi đó, quân Nguyên hoàn toàn mất dấu bộ chỉ huy và hai vua, tạo tiền đề cho thắng lợi chung cuộc của quân Đại Việt.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau khi bắt được Trần Bình Trọng, tướng Nguyên tìm mọi cách để khai thác thông tin, từ tra tấn, dọa nạt, đến dụ dỗ, chiêu hàng. Tuy nhiên, Trần Bình Trọng kiên quyết không khuất phục và không hé nửa lời về hướng đi của quân chủ lực. Không thể chiêu hàng Trần Bình Trọng, quân Nguyên buộc phải giết ông vào năm 1285, lúc đó ông mới chỉ 26 tuổi. Trần Bình Trọng (陳平仲), cái tên “Bình Trọng” cha mẹ đặt cho ông mang ý nghĩa “ở trong hoà bình”, ông được sinh ra sau khi Đại Việt toàn thắng quân Nguyên-Mông lần thứ nhất, được lớn lên, trưởng thành trong thời bình. Và giờ đây ông đã chiến đấu tới giây phút cuối cùng, hy sinh thân mình trong kháng chiến chống Nguyên- Mông lần thứ hai với lý tưởng bảo vệ Tổ quốc, hộ giá hai vua, với khát vọng dành lại độc lập, hoà bình cho dân tộc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tới tháng 6 năm 1285 quân Đại Việt toàn thắng, hai vua Trần trở lại kinh sư, Trần Bình Trọng có công hộ giá, hy sinh vì nước được nhà vua truy phong tước Bảo Nghĩa vương.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Hậu duệ kế thừa ngôi báu</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mặc dù có xuất hiển hách nhưng xét về khía cạnh cuộc sống cá nhân thì Bảo Nghĩa vương kém may mắn hơn nhiều vương tôn quý tộc khác. Khi Trần Bình Trọng chào đời cha mẹ ông đều đã hơn 40 tuổi ở vào cảnh cha già con mọn rồi cha mẹ cũng sớm rời xa, mẹ ông tức Lý Chiêu Hoàng qua đời năm 1278 lúc này ông mới 19 tuổi. Theo các tư liệu thì khi Trần Bình Trọng kết hôn và có một con gái nhỏ thì vợ ông lại không may sớm qua đời. Vua Trần Nhân Tông thương cảnh Bảo Nghĩa hầu gà trống nuôi con nên gá nghĩa đem gả cô mình là công chúa Thuỵ Bảo (con gái vua Trần Thái Tông) cũng sớm chịu cảnh goá bụa cho Trần Bình Trọng. Sau khi Trần Bình Trọng hy sinh, &nbsp;công chúa Thuỵ Bảo ở vậy và nuôi dạy con gái vương là Chiêu Hiến quận chúa trưởng thành.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mang dòng dõi họ Lê, được ban quốc tính họ Trần, khi lớn lên Chiêu Hiến quận chúa được vua Trần Anh Tông lập làm phi tức Huy Tư hoàng phi. Hoàng phi xinh đẹp, nết na rất được vua Anh Tông và chính cung Bảo Từ Hoàng hậu yêu mến.&nbsp; Toàn thư chép: “<i>Có lần Bảo Từ Hoàng hậu thấy Huy Tư phi theo hầu Anh Tông đường xa mà không có kiệu, phá lệ đem cho bà kiệu liễn vốn chỉ dành cho Hoàng hậu ngồi. Tuy nhiên điều này đã bị Trần Anh Tông ngăn cản, còn nhắc: " Bảo Từ có yêu quý Huy Tư thì cho thứ khác, chứ kiệu liễn đã ngồi theo điển chế cũ, không thể cho được."”&nbsp; </i>Về sau,<i> </i>Huy Tư hoàng phi sinh ra Trần Mạnh- người con trai duy nhất sống tới tuổi trưởng thành của vua Trần Anh Tông và được lập làm Hoàng thái tử. Khi Trần Mạnh kế vị Hoàng đế (tức vua Trần Minh Tông), hoàng phi được truy tôn làm Huy Tư Hoàng thái phi, rồi được truy phong làm Chiêu Từ Hoàng hậu. Trần Minh Tông là vị vua đầu tiên của nhà Trần phá lệ chỉ truyền ngôi cho con dòng đích (có mẹ là người nội tộc họ Trần) được lập ra từ thời vua Trần Thánh Tông. Như vậy, Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng chính là ông ngoại của vua Trần Minh Tông. Thật thú vị khi mẹ ông vốn là Nữ đế Lý triều và cháu ngoại ông lại là Hoàng đế Trần triều.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dân tộc ta qua ngàn đời luôn tự hào về truyền thống anh hùng, bất khuất trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Đó là bởi có những tấm gương anh dũng, kiên cường của thế hệ đi trước như danh tướng Trần Bình Trọng và hàng nghìn vị anh hùng trong lịch sử được truyền thừa cho thế hệ kế tiếp noi theo và phát huy. Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng đã hy sinh gần 800 năm trước nhưng câu nói khảng khái, tinh thần bất diệt của ông thì sống mãi cùng lịch sử nước Việt Nam. Quả đúng như lời nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ “Hãy nhớ lấy lời tôi” đã viết:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Có cái chết hóa thành bất tử &nbsp;<br>Có những lời hơn mọi lời ca”.</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-cuoi-nhung-nang-cong-chua-cua-vua-tran-thai-tong"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ Cuối Những Nàng Công Chúa Của Vua Trần Thái Tông</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Trần Quang Khải là một trong số ít hoàng thân nhà Trần tham gia cả 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân Đại Việt. Lần thứ nhất năm 1258, lúc bấy giờ ông mới chỉ là Hoàng tam tử 17 tuổi theo vua cha ra trận. Khi Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ 2 năm 1285, ông được vua Trần Nhân Tông phong chức Thượng tướng thái sư, trấn thủ Thanh Hoá, Nghệ An và có công lớn trong trận đánh tan quân Nguyên tại Chương Dương độ. Tới cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 3 (năm 1287-1288) ông đã là vị tướng lão luyện cùng với Tiết chế Quốc công Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn phò tá 2 vua thống lĩnh quân đội giành chiến thắng huy hoàng, đập tan mưu đồ xâm lược của Nguyên triều.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/502c75366e50cd440019233b872a095e34472db6f045c0142ea91fe5ed0615ef.jpg"alt="9.Tran Quang Khai.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>HOÀNG TAM TỬ</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải sinh vào tháng 10 âm lịch năm 1241, là Hoàng tam tử (hoàng tử thứ ba) của vua Trần Thái Tông, mẹ là Thuận Thiên hoàng hậu Lý Oánh. Xét theo sử ký ghi chép, người anh đầu của ông là Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang (thực chất là con trai của Khâm Minh Đại vương Trần Liễu nhưng được coi là trưởng tử của vua Trần Thái Tông trên danh nghĩa sau sự biến năm 1237). Người anh thứ hai chính là Hoàng đích tử Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Nếu xét theo thứ tự con trai mang huyết thống của vua Trần Thái Tông thì ông cũng đúng là con trai thứ ba. Người con đầu lòng của vua Trần Thái Tông là Hoàng thái tử Trần Trịnh không may chết yểu từ khi mới chào đời năm 1233 (mẹ là Chiêu Thánh hoàng hậu tức nữ đế Lý Chiêu Hoàng). Có lẽ là Trần Quang Khải có duyên với con số 3, nên khi tìm hiểu về vị danh tướng người viết phát hiện ra có khá nhiều số 3 xuất hiện trong cuộc đời ông.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>TAM “CHIÊU” VƯƠNG NỔI DANH KINH THÀNH </b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vua Trần Thái Tông tuy muộn con nhưng về sau lại đông con cháu. Trong số các hoàng tử, tài năng vang danh nhất kinh thành có 3 vị vương gia, Quang Khải là người đứng đầu: Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải, Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc và Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngay từ nhỏ, Trần Quang Khải đã được vua cha cho thụ giáo với Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử Viện giám tu, Bảng nhãn Lê Văn Hưu (tác giả bộ Đại Việt sử ký, bộ quốc sử đầu tiên của nước ta). Sử chép ông là người có học thức, văn võ song toàn lại có tài về ngôn ngữ, hiểu được tiếng nói của các bộ tộc ít người. Xuất thân là con dòng đích, em cùng mẹ với vua Trần Thánh Tông, nên ngay sau khi vua anh lên ngôi, ông được phong tước “Đại vương” (năm 1258). Tới năm 1261, khi vừa 20 tuổi, Trần Quang Khải được phong chức Thái uý tham gia công việc triều chính. Suốt 34 năm trên quan trường ông đã tỏ rõ tài năng, đức độ của mình thật xứng với sự tin tưởng giao phó của đấng quân vương.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vị vương gia nổi tiếng thứ hai là Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, con trai thứ năm của vua Trần Thái Tông, là anh em cùng mẹ với Chiêu Đạo vương Trần Quang Xưởng và Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật (tương truyền mẹ là Vũ phi, huý là Vượng). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Ích Tắc thông minh hiếu học, làu thông kinh sử, lục nghệ, văn chương nhất đời, dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không thông thạo. Ông từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, tất cả gồm 20 người, đều được dùng cho đời. Tiếc rằng về sau khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Đại Việt lần thứ hai (năm 1285), Ích Tắc đem cả gia quyến hàng giặc, được đưa về Trung Quốc và được Hốt Tất Liệt phong làm An Nam quốc vương chờ ngày đưa trở về nước. Sau khi quân Nguyên Mông đại bại lần thứ 2, Trần Ích Tắc ở lại Nguyên triều làm quan tới chức Bình chương chính sự (Tể tướng) và mất ở Trung Quốc. Vì sự phản bội này mà nhà Trần đã loại Ích Tắc ra khỏi tông thất, kết án vắng mặt “<i>Ích Tắc là chỗ tình thân cốt nhục, tuy trị tội cũng thế, nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, có ý chê hắn hèn nhát như đàn bà vậy. Vì thế, những ghi chép đương thời đều gọi là Ả Trần."</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp;Chiêu Văn vương (sau là Chiêu Văn Đại vương) Trần Nhật Duật là con trai thứ sáu của vua Trần Thái Tông, em cùng mẹ với Chiêu Quốc vương. Ông cũng là danh tướng lập đại công trong kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 và thứ 3. Theo sử sách, từ nhỏ ông đã nổi tiếng là hiếu học, sớm lộ thiên tri, thông thạo nhiều ngoại ngữ và hiểu biết sâu rộng về các nước láng giềng. Học tiếng Tống và tiếng Chiêm Thành, Nhật Duật chẳng những sử dụng thành thạo các ngôn ngữ ấy mà còn am hiểu nhiều mặt của các nước đó, kể cả phong tục tập quán của họ. Tuy là con vua, địa vị cao quý song Trần Nhật Duật lại rất phóng khoáng, thích giao du, thăm hỏi người Chiêm, người Tống trong nước.&nbsp;Ngoài ra, ông cũng là người tinh thông âm nhạc, đã chế tác ra nhiều tiết tấu, giai điệu múa hát. Ngoài 20 tuổi, Trần Nhật Duật đã được triều đình giao đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan và trở thành nhà ngoại giao tài ba nhất bấy giờ. Tới thời vua Trần Anh Tông, sau khi Chiêu Minh Đại vương qua đời, Chiêu Văn vương được thăng tới chức Thái uý Quốc công đứng vào hàng Tể tướng, ông cũng là người có công chăm nuôi chu đáo hoàng tử Trần Mạnh (vua Trần Minh Tông) thuở nhỏ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>“TAM GIÁC” TÌNH YÊU</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc hôn nhân của Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải với phu nhân, Phụng Dương công chúa được xem là một trong những chuyện tình đẹp nhất lịch sử Việt Nam. Thế nhưng mối tình đó không hề êm đẹp ngay từ đầu mà Phụng Dương đã phải vò võ trong cô độc rất nhiều năm mới có được tình yêu của chồng. Người viết tự đặt câu hỏi vì sao lại vậy?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo sử chép tháng 2 năm 1258, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho con trai, tức vua Trần Thánh Tông. Vào tháng 8, tân Hoàng đế lập con gái thứ 5 của An Sinh vương Trần Liễu làm Thiên Cảm phu nhân Trần Thị Thiều, ít lâu sau phong làm Thiên Cảm Hoàng hậu. Tới tháng 11 cùng năm thì Hoàng thái tử Trần Khâm chào đời (tức vua Trần Nhân Tông). Cùng năm đó Phụng Dương công chúa được gả cho Chiêu Minh vương Trần Quang Khải. Bấy giờ Quang Khải đã có người thiếp yêu tự Chiêu Hàn, thế nên hờ hững với chính thất. Sự thờ ơ đó kéo dài nhiều năm đến mức cha mẹ ruột của công chúa là Thái uý Trần Nhật Hiệu và Tuệ Chân phu nhân đòi đón con gái về nhưng Phụng Dương nhất mình giữ đạo phu thê, một lòng một dạ chăm lo cho chồng. Người viết mạo muội suy đoán rằng, Trần Quang Khải có thái độ bỏ bê chính thất như vậy hẳn phải có lý do khiến ông tỏ rõ sự bất mãn. Xét về thân thế, Phụng Dương công chúa là trưởng nữ của Thái uý Trần Nhật Hiệu, em trai vua Trần Thái Tông. Từ nhỏ, bà đã nổi tiếng thông minh và rất mực hiền hậu, được Trần Thái Tông yêu quý đem về cung nhận làm con nuôi, cho phong hiệu Phụng Dương Công chúa. Từ đó Phụng Dương sống trong cung như một hoàng nữ. Ngay từ tước hiệu “Phụng Dương” đã cho thấy thân phận cao quý của bà và người viết đồ rằng rất có thể vua Trần Thái Tông vốn có ý chọn bà là ứng viên sáng giá cho ngôi vị hoàng hậu tương lai. Thế nhưng vị quân vương tương lai, Thái tử Trần Hoảng lại không phải là mẫu người “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Thái tử chẳng màng quy định chọn nữ nhân thân phận cao quý trong nội tộc (đích nữ của nhà vương) mà lại đem lòng yêu con gái thứ 5 của vương gia thất thế An Sinh vương Trần Liễu. Có lẽ khi ấy trong hoàng tộc cũng đã xảy ra rất nhiều tranh cãi cho ngôi vị Hoàng hậu nên dù Tân vương lên ngôi từ tháng 2 mà tới tận tháng 8 mới phong hậu và tháng 11 thì Hoàng hậu sinh Thái tử. Vụ việc “thái y bảo cưới” của Trần Thánh Tông đã khiến dự tính trước đó của vua cha Trần Thái Tông đổ bể. Cuối cùng Thượng hoàng đành ban hôn gả Phụng Dương công chúa cho con trai thứ Chiêu Minh vương, chẳng anh thì em cũng vẫn là tấm chồng môn đăng hộ đối.=)) Hẳn nhiên Quang Khải cũng không phải đứa con trai bảo gì nghe nấy, thành ra cơ sự như vậy, cưới thì cưới nhưng không yêu nàng, lấy nàng làm chính thê nhưng mặc kệ, bỏ bê không đoái hoài tới nàng, cho nàng danh phận cao nhất nhưng chẳng dành một chỗ trong tim cho nàng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc hôn nhân của hai người cứ như vậy mà trôi qua năm tháng, chỉ có nghĩa không có tình cho tới tận mùa đông năm1284, quân Nguyên sang xâm lược Đại Việt lần thứ 2, gia đình Chiêu Minh đang trên đường đi lánh giặc, nửa đêm trong thuyền xảy ra hoả hoạn. Lúc ấy Chiêu Minh Đại vương đương ngủ, Công chúa ngờ là giặc đã tới nơi, đánh thức chồng dậy, đưa cho cái lá chắn và lấy mình che cho chồng. Khoảnh khắc ấy đã khiến Trần Quang Khải cảm kích, ngỡ ngàng và rung động, khiến trái tim băng giá với người vợ bao năm tan ra. Từ ấy về sau tìm cảm phu thê nhà Chiêu Minh ngày càng nồng ấm. Theo sách sử chép lại, Trần Quang Khải có 7 người con thì đều do Phụng Dương công chúa sinh cả. Tới lúc phu nhân qua đời, vị Thái sư đã viết thư đặt vào tay công chúa 9 chữ: "Kiếp sau xin được làm chồng vợ như xưa".&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>TAM TRIỀU THÁI SƯ</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Quang Khải là một trong số ít hoàng thân nhà Trần tham gia cả 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân Đại Việt. Lần thứ nhất năm 1258, lúc bấy giờ ông mới chỉ là Hoàng tam tử 17 tuổi theo vua cha ra trận. Khi Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ 2 năm 1285, ông được vua Trần Nhân Tông phong chức Thượng tướng thái sư, trấn thủ Thanh Hoá, Nghệ An và có công lớn trong trận đánh tan quân Nguyên tại Chương Dương độ. Tới cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 3 (năm 1287-1288) ông đã là vị tướng lão luyện cùng với Tiết chế Quốc công Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn phò tá 2 vua thống lĩnh quân đội giành chiến thắng huy hoàng, đập tan mưu đồ xâm lược của Nguyên triều.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp;Trần Quang Khải cũng là vị công thần bậc nhất nắm giữ chức vụ Thái sư dưới 3 triều vua Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông. Vào thời chiến, ông là Thượng tướng thống lĩnh ngàn quân. Đất nước hoà bình, ông là Thái sư chăm lo quốc sự. Những lúc thư nhàn, ông là văn sĩ, viết văn làm thơ, ca múa, tác phẩm của ông có Lạc đạo tập và một số bài thơ còn được lưu truyền: Tụng giá hoàn kinh sư, Phúc Hưng viên, Lưu gia độ, Dã thự, Xuân nhật hữu cảm... Tương truyền tại Phương Bông (Nam Định) còn lưu lại điệu múa "bài bông" được người dân ở đây cho là khởi xướng bởi Trần Quang Khải trong tiệc "Thái bình diên yến" do Trần Nhân Tông tổ chức sau khi chiến thắng quân Nguyên.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày 3 tháng 7 âm lịch năm Hưng Long thứ hai (năm 1294) đời vua Trần Anh Tông, Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải qua đời. Vợ ông là Phụng Dương công chúa đã mất trước đó 3 năm. Ông bà được chôn cất tại thái ấp của mình, được thờ làm Thành hoàng làng Cao Đài (Nam Định). Hậu duệ của vương sau này nhiều đời vinh hiển, con cháu nhiều nhân tài giữ chức vụ cao trong các triều đại. Chiêu Minh Đại vương cũng là tổ phụ nhiều đời của Tư đồ Trần Nguyên Đán- ông ngoại của Đại thi hào Nguyễn Trãi, ông nội của danh tướng Trần Nguyên Hãn- hai vị khai quốc công thần triều Hậu Lê.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:&nbsp;</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-15-bao-nghia-vuong-tran-binh-trong-tha-lam-ma-nuoc-nam-chu-khong-them-lam-vuong-dat-bac"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 15 Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng: "Thà Làm Ma Nước Nam Chứ Không Thèm Làm Vương Đất Bắc"</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Một nhân vật có xuất thân hiển hách nhưng đã sớm gặp phải biến cố từ khi còn hoài thai trong bụng mẹ, một vương gia dưới 4 triều vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, một thần tử sát cánh với quốc gia giành chiến thắng trong 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (1257, 1285, 1287), cuộc đời Trần Quốc Khang cũng trải đủ phong ba. Bằng một chữ “tĩnh”, bằng thái độ khiêm cung, tấm lòng chân thành, hiểu thấu thế sự, dốc sức chăm lo bổn phận trấn thủ biên cương, Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang đã gầy dựng cho mình một đời bình an, cho con cháu mình giữ được tập ấm, gia đạo an vui nhiều đời.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/13f965ad49504ff7ecc3c2ce8fc2a0fee1fe924ad5b1bd8c3b00ea816350f08d.jpg"alt="Tran Quoc Khang.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>(Nguồn ảnh: Pinterest)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>SÓNG GIÓ CHÀO ĐỜI</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua Trần Thái Tông đã lâu không có con,Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh hoàng hậu để lập Thuận Thiên công chúa làm hoàng hậu, Thuận Thiên là vợ của Trần Liễu, chị dâu của Trần Thái Tông đồng thời là chị gái của Chiêu Thánh. Lúc bấy giờ Thuận Thiên đang mang thai đứa con thứ 2 với Trần Liễu được 3 tháng, Trần Thủ Độ bàn với vua việc phế lập để lấy đứa trẻ đó làm con nối dõi mà nhờ cậy về sau. Nhân lúc triều đình cử Trần Liễu đi xa, Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu đưa Thuận Thiên công chúa vào cung. Bất lực trước tình cảnh éo le này, vua Trần Thái Tông bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử định đi tu. Trần Liễu trở về biết tin, ôm hận nỗi nhục bị cướp vợ cướp con, nhân lúc ngai vàng bỏ trống, Trần Thủ Độ rời kinh tìm vua, Trần Liễu liền họp quân nổi loạn ở sông Cái. Thế nhưng với bản lĩnh gian hùng, Trần Thủ Độ nhanh chóng rước được vua Thái Tông hồi kinh đồng thời thẳng tay tiêu diệt đội quân làm phản. Nổi loạn được 2 tuần, Trần Liễu biết mình thất thế, phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Thái Tông xin tha tội<a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Li%E1%BB%85u#cite_note-PCV-8"></a>. Kết cục của sự biến năm Đinh Dậu, vua Trần Thái Tông buộc phải phế lập, Thuận Thiên trở thành hoàng hậu, Trần Liễu phải an phận làm An Sinh vương không quyền lực không quân đội, còn hoàng hậu bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa. Trần Quốc Khang chính là đứa trẻ trong bụng Thuận Thiên ngày ấy.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sáu tháng sau, khoảng tháng 10 năm 1237, Trần Quốc Khang chào đời trên danh nghĩa là con trưởng vua Trần Thái Tông nhưng thực chất lại là con trai riêng của Thuận Thiên hoàng hậu với An Sinh vương Trần Liễu, tức vai cháu gọi vua là chú ruột. Có lẽ việc đặt tên Trần Quốc Khang cho đứa trẻ dường như cũng là dụng ý của vua Trần Thái Tông về thân thế (các con trai của Trần Liễu có Trần Tung/Trần Quốc Tung, Trần Quốc Tuấn, đích tử Trần Doãn). Khi mới chỉ là bào thai trong bụng mẹ đã bị Thái sư đem ra làm cái cớ của biến cố hoàng tộc náo loạn hậu cung, chào đời trong tình cảnh éo le cha, mẹ, chú, dì không ai vui vẻ, quả thực Trần Quốc Khang đã phải chịu nhiều thiệt thòi. Dù muốn hay không thì từ khi thơ bé, Quốc Khang cũng khó&nbsp; tránh khỏi những lời dị nghị, bàn tán xôn xao của miệng lưỡi người đời về thân thế khác thường, khó nói ra đó.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>HOÀNG TRƯỞNG TỬ NHƯNG KHÔNG PHẢI ĐÍCH TỬ</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vốn là đứa con mà nhà vua muối mặt “mạo nhận” để lấy người nối dõi tông đường, những tưởng Trần Quốc Khang sẽ mãi là hoàng tử có thân phận cao quý nhất hoàng cung từ đó. Vì nỗi day dứt với gia đình người anh trai và sự áy náy với đứa cháu, theo sử sách chép lại, vua Trần Thái Tông nhất mực yêu thương và coi Quốc Khang như con đẻ. Thế nhưng không ai biết trước được chữ ngờ. Cũng chẳng ai rõ đã có những chuyện gì xảy ra, tới 3 năm sau đó, vào tháng 9 năm 1240, Thuận Thiên hoàng hậu hạ sinh cho vua Trần Thái Tông đích tử Trần Hoảng, lập tức được sắc phong làm Đông cung hoàng thái tử (vua Trần Thánh Tông sau này). Một năm sau đó, cuối năm 1241, hoàng hậu sinh tiếp hoàng tử thứ 3, Trần Quang Khải (tức Chiêu Minh Đại vương). Trần Quốc Khang không còn là hoàng tử nối dõi nữa. Từng là đứa trẻ Trần Thủ Độ “cướp về” cho vua để trông cậy mai này, giờ đây cái cớ đó không còn cần đến nữa. Xét trên hoàn cảnh bấy giờ nếu coi như trong hoàng cung đang có “người thừa”, thì người thứ nhất là phế hậu Chiêu Thánh công chúa, dì ruột của Quốc Khang và người thứ hai chính là Trần Quốc Khang, đứa trẻ người ta đã không còn cần đến vai trò của nó nữa. Lớn lên, Trần Quốc Khang hẳn đã biết được mình không phải con ruột của vua Trần Thái Tông và càng có ý thức rõ hơn về thân thế khác biệt của mình so với các hoàng đệ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1248, Thuận Thiên hoàng hậu qua đời ở tuổi 33. Hoàng trưởng tử mới 11 tuổi đã phải chịu nỗi đau mất mẹ. Là anh cả, Quốc Khang trở thành bờ vai an ủi cho những đứa em thơ trong khi chính bản thân mình bơ vơ, mất đi chỗ dựa lớn nhất. Biến cố này có lẽ đã để lại dấu ấn lớn với Quốc Khang và phần nào khiến ông trở thành người quý trọng tình thân hơn quyền lực.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>TĨNH QUỐC VƯƠNG TÀI ĐỨC TẦM THƯỜNG?</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong chính sử không chép rõ về thời điểm Trần Quốc Khang được phong vương, song người viết đồ rằng vào khi vua Trần Thái Tông sắc phong con đích Trần Hoảng làm Đông cung hoàng thái tử thì cũng đồng thời phong tước cho Trần Quốc Khang là Tĩnh Quốc vương. Chữ “Tĩnh Quốc” này có lẽ vừa là sự gửi gắm ước mong từ đây nước nhà an bình chẳng còn can qua, mà cũng rất có thể là lời nhắc nhở với Quốc Khang tựa như tước An Sinh vương ban cho cha ông, Trần Liễu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người viết trộm nghĩ, nếu ngày trước quả thực Trần Liễu có ý định “rửa mối hận, lấy lại thiên hạ” thì trong số những đứa con của ông, Trần Quốc Khang là người có khả năng làm được việc đó nhất. Về chính danh Trần Quốc Khang là hoàng tử con vua Trần Thái Tông, do hoàng hậu Thuận Thiên sinh ra, được nuôi dạy trong hoàng cung, hoàn toàn có thể thừa kế ngai vàng. Về huyết thống, Quốc Khang là giọt máu của Trần Liễu, cùng cha với tất cả những đứa con của An Sinh vương, lại là anh cùng mẹ, cùng lớn lên với các con của Trần Thái Tông bấy giờ (nhiều số tư liệu cho rằng hầu hết những người con vua do các thứ phi sinh đều chào đời sau khi Thuận Thiên hoàng hậu mất). Bởi thế nếu Quốc Khang có mưu đồ khác thì người viết cho rằng ông ấy có nhiều điều kiện thuận lợi. Chắc chắn rằng những yếu tố đó không thể lọt qua con mắt già đời của Thái sư Trần Thủ Độ nhất là khi cha Quốc Khang đã từng làm loạn, cũng như để lại mối bận tâm trong lòng vua cha Trần Thái Tông và vua em Trần Thánh Tông sau này. Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) chép <i>“Tân Dậu, năm thứ 4, 1261, vua Trần Thánh Tông cho Chiêu Minh Đại vương Quang Khải làm Thái uý. Bấy giờ anh vua là Quốc Khang tuổi lớn hơn, nhưng tài đức tầm thường, cho nên cho Quang Khải làm tướng.” </i>Sử gia chép vậy, liệu có thực là Tĩnh Quốc vương tài đức tầm thường?</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhìn lại những người con của Trần Liễu như Tuệ Trung thượng sĩ Trần Quốc Tung, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đều là những anh hùng, con gái có Thiên Cảm Nguyên Thánh hoàng hậu Trần Thị Thiều là mẫu nghi thiên hạ, người sinh ra Phật Hoàng Trần Nhân Tông sau này. Lại thấy những người con do Thuận Thiên sinh ra: vua Trần Thánh Tông, Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải đều là bậc minh quân, danh tướng. Vậy thì có lẽ nào hai người con chung của Trần Liễu và Thuận Thiên là Vũ Thành Vương Trần Doãn và Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang lại không thừa hưởng chút thiên tư sáng suốt nào của cha mẹ? Người viết cho rằng chính thân thế đặc biệt của hai anh em, họ buộc phải im hơi lặng tiếng, giữ mình mờ nhạt giữa những cái tên lừng lẫy của anh em trong gia tộc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nếu như người anh trai cùng cha mẹ là Trần Doãn ngày càng thất thế, lạc lõng sau khi Thuận Thiên hoàng hậu và An Sinh vương Trần Liễu sớm qua đời, đã chọn cách bỏ đi, mang theo gia quyến trốn sang nhà Tống năm 1256 khi Đại Việt đứng trước nguy cơ chiến tranh với quân Nguyên Mông, rồi bị Thổ quan phủ Tư Minh nhà Tống là Hoàng Bỉnh bắt lại, đưa trả về nước. Thì có lẽ Trần Quốc Khang may mắn hơn khi còn chỗ dựa là vua Trần Thái Tông, cha con anh em trong nhà hoà thuận, chung sức đồng lòng cùng quân dân đánh bại Mông Cổ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>&nbsp;Vào năm Mậu Thìn 1268 dưới thời vua Trần Thánh Tông, <i>“mùa đông, tháng 10, vua cùng anh là Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang cùng đùa ở trước mặt Thượng hoàng (tức vua Trần Thái Tông). Thượng hoàng bấy giờ mặc áo vải bông trắng, Tĩnh Quốc múa kiểu người Hồ được Thượng hoàng cởi áo ban cho. Vua cũng múa kiểu người Hồ để xin áo ấy. Quốc Khang nói: “Quý nhất là ngôi hoàng đế, hạ thần không dám tranh với chú hai, nay đức chí tôn cho thần một vật nhỏ mọn này mà chú hai muốn cướp lấy chăng?” Thượng hoàng cả cười nói: “Thế ra con coi ngôi vua với cái áo xoàng này không hơn kém gì nhau”, khen ngợi hồi lâu rồi cho Tĩnh Quốc cái áo ấy.”</i> (Trích ĐVSKTT) Chỉ một chuyện nhỏ về cái áo bông của Thượng hoàng, qua câu trả lời của Trần Quốc Khang, ta có thể thấy ông ấy tài trí không hề tầm thường, vừa hiểu chuyện thế sự, vừa biết nói đùa đúng lúc đúng chỗ để tỏ cái ý mình không tranh quyền, vừa giữ được món quà là cái áo vua cha tặng cho mình, vừa khiến vua cha hài lòng, vừa không làm phật ý vua em.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Rất có thể sau sự việc cái áo, hai vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông đều thay đổi cách nhìn nhận về Trần Quốc Khang. Một năm sau đó, tháng 9 năm 1269, vua phong Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang làm Vọng giang phiêu kỵ đô thượng tướng quân, trấn thủ Diễn Châu (Nghệ An).</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>4.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>MỘT ĐỜI TĨNH LẶNG ĐỔI LẤY GIA AN</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Canh Ngọ, năm 1270, <i>“Tĩnh Quốc Đại vương Quốc Khang dựng phủ đệ ở Châu Diễn, lộng lẫy quá mức thường. Vua nghe tin, sai người đến xem, Tĩnh Quốc sợ, mới tô tượng Phật để thờ (nay là chùa Thông)”</i> (Trích ĐVSKTT). Có người cho rằng Quốc Khang xây dựng phủ đệ quá mức là cách để cho vua em an tâm Tĩnh Quốc đại vương thích hưởng lạc, không có mưu đồ khác. Có người cho rằng Tĩnh Quốc ưa sống xa hoa, để vua nhắc nhở mới đối phó mà nói thành xây chùa. Cá nhân người viết cho rằng cả hai nhận định đều có ý đúng.&nbsp; Dù ẩn ý là như thế nào thì kết quả về sau cho thấy cơ nghiệp nhà Trần đã yên vị ngôi quân chủ, không gặp chính biến, vua Trần Thánh Tông cũng không phải bận lòng về người huynh trưởng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau này các con đích của Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang đều liên hôn với con đích của Chiêu Minh Đại vương Trần Quang Khải. Trần Quốc Khang được giao trọng trách trấn giữ Châu Diễn là phên giậu, biên giới phía Nam của Đại Việt lúc bấy giờ. <i>“Về sau chức tri Diễn Châu đều là con cháu của Quốc Khang làm cả, đến khi dòng giống không có con trai, mới dùng người bản châu làm tri châu.”</i> (ĐVSKTT)</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Canh Tý, năm 1300, tháng 3 nhuận, Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang qua đời dưới thời vua Trần Anh Tông, hưởng thọ 64 tuổi. Một nhân vật có xuất thân hiển hách nhưng đã sớm gặp phải biến cố từ khi còn hoài thai trong bụng mẹ, một vương gia dưới 4 triều vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, một thần tử sát cánh với quốc gia giành chiến thắng trong 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (1257, 1285, 1287), cuộc đời Trần Quốc Khang cũng trải đủ phong ba. Cha ruột ông Trần Liễu từng gây chính biến làm loạn ở Sông Cái, con ông cũng có kẻ hèn nhát khi đất nước bị xâm lăng mà đem quân đầu hàng giặc (Chương Hiến hầu Trần Kiện năm 1285 hàng giặc ở Ái Châu nhưng trên đường chạy về nước Nguyên thì bị tướng người Tày là Nguyễn Thế Lộc bắn chết, sau bị xoá Quốc tính đổi họ thành Mai Kiện), song bằng một chữ “tĩnh”, bằng thái độ khiêm cung, tấm lòng chân thành, hiểu thấu thế sự, dốc sức chăm lo bổn phận trấn thủ biên cương, Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang đã gầy dựng cho mình một đời bình an, cho con cháu mình giữ được tập ấm, gia đạo an vui nhiều đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-14-chieu-minh-dai-vuong-tran-quang-khai-hoang-tam-tu-tam-trieu-thai-su"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 14 Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải: Hoàng Tam Tử Tam Triều Thái Sư</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thái sư Trần Thủ Độ là nhân vật nổi tiếng bậc nhất trong triều đại phong kiến nhà Trần, ông có vai trò đóng góp to lớn cho cuộc chuyển giao ngai vàng từ họ Lý sang họ Trần thông qua sự kiện Nữ đế Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là vua Trần Thái Tông năm 1225. Cuộc đời ông trở thành nguồn cảm hứng đặc biệt trong các nghiên cứu lịch sử, văn hoá, trong sáng tác văn chương, biểu diễn nghệ thuật và cả lĩnh vực điện ảnh. Bởi thế mà ở bài này, người viết chẳng thể kể hết, chỉ mạn phép chia sẻ đôi điều có thể nhiều người chưa biết về Thống quốc Thái sư Trần Thủ Độ.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/99e199f98faffe8a2ae7fa557b615121db1dfede84d9c9e35b010bf526baf833.jpg"alt="10. Tran Thu Do.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>Hé lộ thân thế: Trần Thủ Độ rất có thể là cháu ngoại vua Lý Anh Tông</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong chính sử không đề cập rõ về thân thế của Trần Thủ Độ, chỉ nói ông là em họ của Thái Tổ Trần Thừa, chú họ vua Trần Thái Tông. Song ở các nguồn tư liệu dân gian như gia phả dòng họ Trần, gia phả Trần Ích Tắc biên soạn còn truyền lại ở Trung Quốc có thêm nhiều thông tin hơn. Người viết đã rất bất ngờ khi đọc được thông tin cha mẹ Trần Thủ Độ &nbsp;lại vốn là phò mã, công chúa nhà Lý. Theo đó cha của Trần Thủ Độ là Trần Thủ Huy, một trang nam nhi giỏi võ nghệ đã từng giúp đỡ và phò trợ Thái tử cũ Lý Long Xưởng. Nhờ lập công với triều đình mà Trần Thủ Huy được vua Lý Cao Tông gả công chúa Đoan Nghi (con gái vua Lý Anh Tông) và trở thành phò mã. Về sau, vì nghe lời gièm pha (có lẽ là liên đới với việc Chiêu Linh thái hậu và Thái tử cũ Lý Long Xưởng gây rối), vua Lý đã sai phò mã Trần Thủ Huy và công chúa Đoan Nghi đi sứ nước Liêu (Mông Cổ). Thời đó đi sứ phương xa chẳng khác nào bị đi đày, công chúa Đoan Nghi đã sinh ra Trần Thủ Độ khi ở Liêu quốc, còn con trai đầu là Trần Thẩm thì được gửi lại nhờ người bác họ Trần Lý nuôi dạy. Lớn lên, Trần Thủ Độ được gửi về nước và ở với Trần Lý rồi tham gia vào đại nghiệp của họ Trần. Điều này rất phù hợp với việc Trần Thủ Độ thường tự nhận <i>“Ta không biết chữ nghĩa gì”</i> ý là khi ở với cha mẹ tại nước Liêu thì ông không có điều kiện học hành đầy đủ. Theo các tài liệu trên thì cha mẹ Trần Thủ Độ có khả năng đã mất hoặc sống lưu vong và không có mặt ở Đại Việt khi nhà Trần khởi nghiệp.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cá nhân người viết cho tư liệu đó khá đáng tin và giúp lý giải được thái độ, hành xử cực kỳ phũ phàng của Trần Thủ Độ đối với vua Lý Huệ Tông, Lý Chiêu Hoàng và tôn thất họ Lý sau này.&nbsp; Mặc dù là cháu ngoại họ Lý nhưng bởi do nhà vua bắt cha đi sứ mà gia đình ly tán anh em xa lìa, cha mẹ bất mãn, chịu nhiều vất vả, sớm qua đời là lý do Trần Thủ Độ đã hình thành quan điểm đoạn tuyệt với họ ngoại, ôm mối ân oán dẫn tới những hành động tàn nhẫn, thẳng tay diệt trừ hoàng tộc họ Lý. Trong Đông A di sự, bàn tới lá số tử vi của Trần Thủ Độ có đoạn khi xem lá số cho Thái sư, Huệ Túc phu nhân nói:<i> “Tiên sinh chịu ơn ai một bát cơm, sau sẽ trả bằng một kho thóc. Bị ai mắng một câu, sau này tiên sinh sẽ tru di tam tộc nhà người ta.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>Chủ trương kết hôn nội tộc</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Chuyện anh chị em họ kết hôn với nhau là điều thường thấy trong các triều đại phong kiến trên toàn thế giới nhằm mục đích liên hôn chính trị, đảm bảo lợi ích gia tộc. Nhưng tại Đại Việt thời xưa chỉ cho phép việc kết hôn giữa anh chị em họ ngoại con cô con cậu, con dì con già với nhau (khác họ) chứ tuyệt đối không được phép kết hôn trong nội tộc (cùng họ). Và Trần Thủ Độ chính là người đầu tiên có cuộc hôn nhân trái luân thường, ông và người vợ Trần Thị Dung vốn là chị em họ con chú con bác cùng nội tộc. Ông cũng là người đưa ra quy định kết hôn cận huyết chỉ cho phép con cháu Hoàng tộc nhà Trần được kết hôn trong nội tộc với lý do để tránh nạn ngoại thích cướp ngôi (như chính cách nhà Trần đi lên từ ngoại thích đoạt quyền nhà Lý). Vấn đề hôn nhân nội tộc cũng là điều mà các sử gia cực lực phê phán là hành vi trái luân thường đạo lý trong hôn nhân các vua nhà Trần.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Quay lại câu chuyện Trần Thủ Độ vốn được sinh ra và lớn lên ở đất Liêu, thế nên văn hoá tập tục du mục của Mông Cổ rất có thể đã ăn sâu trong nhận thức, trong quan điểm, lối sống của ông. Theo tập quán của người Mông Cổ, kết hôn trong nội tộc là chuyện bình thường. Hơn nữa phong tục hôn nhân Mông Cổ xem người vợ chỉ như “tài sản” của chồng. Điều này có nghĩa rằng khi ông chồng chết đi thì người vợ cũng thuộc về người thừa kế tài sản của ông ta, lúc này người thê thiếp sẽ phải làm vợ của anh/em chồng/con chồng/cháu chồng. Và bởi thê thiếp như tài sản nên đàn ông Mông Cổ cũng được quyền tặng vợ cho người khác (Thành Cát Tư Hãn từng hào phóng đem phi tần trong hậu cung của mình tặng cho tướng soái). Có khả năng do lớn lên trên thảo nguyên, chứng kiến đời sống người Liêu như vậy mà quan điểm về hôn nhân của Trần Thủ Độ khác biệt, trái hẳn với phong tục Đại Việt bấy giờ. Có lẽ cũng bởi vậy mà sau này ông ấy bất chấp đạo lý lập mưu ép vua Trần Thái Tông làm việc trái luân thường, lấy vợ cướp con của anh trai, khiến anh vua là Trần Liễu không chịu nổi bức bách mà kéo quân làm loạn ở sông Cái năm 1237.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy rằng chủ trương kết hôn nội tộc được các vua thời đầu Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông nghiêm chỉnh tuân theo và đã sản sinh cho họ Trần những vị minh quân thần tướng tài năng, song cũng đã gây ra những vấn đề về di truyền nối dõi ở các đời sau. Tới thời vua Trần Anh Tông thì Bảo Từ hoàng hậu (chính thất đồng thời là em họ con chú vua) mấy lần sinh con trai đều đoản mệnh, người con trai duy nhất còn sống tới tuổi trưởng thành là thái tử Trần Mạnh (tức vua Trần Minh Tông) thì do Huy Tư hoàng phi (Chiêu Hiến quận chúa, họ hàng xa với vua) sinh ra. Tới vua Trần Minh Tông thì các con trai do Lệ Thánh hoàng hậu (chính thất đồng thời là em họ con chú vua) đều tuyệt tự (đích tử Trần Nguyên Dục và vua Trần Dụ Tông), các con trai nối nghiệp vua là Trần Hiến Tông (trước Trần Dụ Tông), Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông đều do hai thứ phi họ Lê sinh ra. Đến cuối thời, nhà Trần rốt cuộc cũng không thể tránh khỏi nạn ngoại thích tiếm quyền khi Hồ Quý Ly (trước là Lê Quý Ly, cháu họ gọi Minh Từ thái phi mẹ hai vua Trần Hiến Tông và Trần Nghệ Tông bằng cô) từng bước soán quyền, phế vua, cướp ngôi họ Trần.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>Công thần</b><b> và Quyền thần</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Thủ Độ là công thần bậc nhất trong sự nghiệp khai mở Trần triều là điều hậu nhân bao đời đều công nhận. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn dài để về Trần Thủ Độ :<i> “Thủ Độ tuy không có học vấn, nhưng tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tông lấy được thiên hạ đều nhờ mưu sức của ông cả. Vì thế ông được nhà nước dựa cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ có kẻ đàn hặc ông, vào gặp Thái Tông khóc mà nói rằng:&nbsp;"Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?". Thái Tông lập tức lệnh xe ngựa đến dinh Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc ấy đem theo và nói hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ biết. Thủ Độ trả lời:&nbsp;"Đúng như những lời hắn nói". Rồi lấy ngay tiền lụa thưởng cho người ấy.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Qua đoạn sử ngắn đã cho thấy bản thân vị Thái sư cũng thừa nhận rằng quả đúng ông quyền át vua. Người viết mạo muội suy đoán sự việc trên xảy ra ở thời điểm Thái Tổ Trần Thừa đã qua đời, Trần Thái Tông tự mình chấp chính ở tuổi 15,16, khi đó Trần Thủ Độ là Thái sư phụ chính. Trần Thủ Độ không chỉ là công thần khai quốc, đại thần phó trợ mà ông cũng là họ hàng thân thích, là chú họ kiêm cả vai cha vợ vua (là cha dượng cả 2 hoàng hậu của Thái Tông) thế nên trong mắt bậc cha chú, con cháu có lớn vẫn chỉ là đứa trẻ. Bởi ông đã trải bao chinh chiến, đã thấm thía họ Trần gian nan thế nào, vất vả ra sao, đổ bao xương máu, mất mát những gì để giành được ngôi báu, bởi nhận uỷ thác từ Thái Tổ Trần Thừa và cả dòng họ Trần nên với ông điều quan trọng nhất là cơ nghiệp gia tộc, là giữ vững ngôi báu. Vì thế ông ấy sẵn sàng bất chấp tất cả, yêu cầu khắt khe, sẵn sàng thẳng tay dạy dỗ và cả trừng trị những đứa cháu miễn đạt được mục tiêu bảo toàn lợi ích gia tộc. Lúc Thái Tổ Trần Thừa còn tại vị, Trần Thủ Độ chỉ đảm nhận vai trò võ tướng sa trường đánh Bắc dẹp Đông. Khi Thượng Hoàng qua đời, ông là trụ cột trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và cũng nhúng tay luôn vào chuyện hậu cung, hậu duệ của vua Trần Thái Tông. Từ mẩu chuyện nhỏ ở trên, hành động vua Trần Thái Tông đưa luôn người đàn hặc (luận tội) tới gặp Thái sư, một mặt cho thấy lòng tin của vua với ông song ở một khía cạnh khác cũng có thể là vị vua trẻ đang thăm dò thái độ ông chú, biết đâu là bao lâu mới có người dám nói ra điều vua muốn bày tỏ. Lật lại các sự kiện trước đó, năm 1234 vua Trần Thái Tông từng phong cho anh trai Trần Liễu tước Hiển hoàng phụ chính, nhưng chỉ trong vòng 3 năm Trần Liễu đã thảm bại dưới tay Thái sư trên chính trường đến nỗi suýt mất cả mạng. Vua cũng từng muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc vương làm tể tướng, nhưng Thủ Độ gàn:&nbsp;<i>"An Quốc là anh thần, nếu cho giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể cử. Nếu anh em đều làm tể tướng cả thì việc triều đình sẽ ra làm sao?"</i> vua bèn thôi. Có lẽ vị vua trẻ đã từng nhiều lần tìm cách, tìm người làm đối trọng cân bằng quyền lực với Trần Thủ Độ nhưng không thành công.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy Trần Thủ Độ át quyền vua song ông lại không có lòng tư lợi hay ý đồ soán vị, ông một lòng tận tuỵ phò tá Trần Thái Tông. Trong sự biến năm 1237, chính Trần Thủ Độ từng nhận <i>"Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?" </i>Lòng trung thành của ông là nền tảng vững chắc giúp vua gây dựng Đại Việt vững vàng, thịnh trị sau loạn ly cuối thời Lý. Trong cuộc kháng chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất năm 1257, nhờ kinh nghiệm thưở nhỏ hiểu lối sống dân du mục thường đánh nhanh thắng nhanh nhưng bất lợi khi phải chiến đấu dài ngày, Thái sư Trần Thủ Độ đưa ra kế “thanh dã” (vườn không nhà trống) đã phát huy tác dụng làm tiêu hao sức địch, tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu. Vào thời điểm quân nhà Trần thất thế, phải lui quân về sông Thiên Mạc, khi được vua hỏi về kế sách, Thủ Độ khẳng khái tâu: <i>"Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo".</i> Nhờ khí khái kiên cường, tinh thần bất khuất, kế sách vẹn toàn, vua quan nhà Trần tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đánh bại quân Mông Cổ, khiến chúng phải thoái chạy về nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thật đúng với lời Huệ Túc phu nhân khi luận giải lá số tử vi của Trần Thủ Độ<i>: “Tiên sinh hành sự bất chấp luật pháp, chẳng kể đạo lý. Có lúc tiên sinh thành người nửa chính, nửa tà, nửa ma, nửa quỷ. Tiểu nữ e muôn nghìn năm sau còn bị dị nghị. Nhưng… dù ai dị nghị, thì chỉ dị nghị về cá nhân tiên sinh. Còn đối với đất nước, quả thật công lao cũng như tấm lòng của tiên sinh sáng như trăng rằm, không ai chê trách được.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Khi trưởng thành, vua Trần Thái Tông ngày càng thể hiện rõ tài năng đức độ, sự anh minh, sáng suốt của mình và dần làm chủ chính sự. Thái sư Trần Thủ Độ khi lớn tuổi cũng không tham quyền cố vị mà tự lui về sau để nhà vua và thế hệ hậu duệ họ Trần kế thừa cơ&nbsp; nghiệp, gánh vác cơ đồ. Năm 1264 dưới thời vua Trần Thánh Tông, mùa xuân, tháng Giêng, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, hưởng thọ 71 tuổi. Ghi nhận công lao to lớn của ông, Trần Thủ Độ được Thượng hoàng Trần Thái Tông truy tặng thụy hiệu là Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại vương. Theo những gì lưu lại, ông chỉ có một người con trai là Nhân Huệ hầu Trần Phó Duyệt, cháu nội của ông có danh tướng lắm tài nhiều tật Trần Khánh Dư (người cháu này cũng bá đạo trên từng hạt gạo chẳng kém ông nội) và Trần Văn Lộng (sau bị đổi thành Mai Văn Lộng do đã đầu hàng giặc Nguyên vào năm 1285).</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc đời thăng trầm, lắm thị phi nhiều dị nghị của Thái sư Trần Thủ Độ chung quy lại là một lòng dốc sức vì cơ nghiệp họ Trần, một dạ trung thành với vua Trần Thái Tông, một tình yêu chung thuỷ với Linh Từ Quốc mẫu và một nhà quân sự tài năng, một đại thần thanh liêm đức độ hết lòng vì xã tắc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-13-tinh-quoc-dai-vuong-tran-quoc-khang-boi-tinh-ma-an"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 13 Tĩnh Quốc Đại Vương Trần Quốc Khang: Bởi "tĩnh" Mà "an"</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Thái Tổ Trần Thừa chính là người khai mở và đặt nền móng vững chắc cho triều đại hào khí Đông A kéo dài 175 năm với 12 đời hoàng đế. Những gì ông thực hiện trong cách thức cai trị đất nước, chủ trì gia sự để lại ảnh hưởng rất lớn tới các thế hệ quân vương kế tiếp, từ việc khuyến khích đạo Phật, chính sách đối nội đối ngoại, lệ các vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con rồi lên làm Thái thượng hoàng cùng vua con cai trị đất nước, quy định kết hôn trong nội tộc… đều được duy trì suốt triều đại. Ghi chép về vị Thái tổ đặc biệt này không nhiều, ông được nhắc đến chủ yếu ở vai trò là cha của vua Trần Thái Tông mà ít được nói đến trong những thành tựu hay các sự biến quan trọng diễn ra trong công cuộc chuyển ngôi và xây dựng cơ nghiệp nhà Trần.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/15d36bf3052a3255c12f474004a8c0be9aa0ee9c71e759eda86a618cca86025c.jpg"alt="16. Tran Thua.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Vị Thái Tổ chưa từng ở ngôi vua</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong thời kỳ phong kiến tại các quốc gia Á Đông, miếu hiệu “Thái Tổ” thường được dành cho vị vua đầu tiên có công sáng lập ra triều đại mới. Thế nhưng Trần Thái Tổ Trần Thừa lại chưa từng ở ngôi vua. Ông là Thái thượng hoàng đầu tiên của nhà Trần khi con trai ông - Trần Cảnh trở thành hoàng đế khai mở Trần triều.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1225, vua Trần Thái Tông lên ngôi khi mới 7 tuổi sau màn chuyển giao Nữ đế Lý Chiêu Hoàng trút hoàng bào nhường ngôi cho chồng. Tân đế tuổi còn nhỏ, Trần Thừa trở thành người nhiếp chính cho con trai và cùng với người em họ - Thái sư Trần Thủ Độ làm chủ triều chính. Thái thượng hoàng Trần Thừa chính là người nắm thực quyền từ lúc con trai lên ngôi cho đến khi ông qua đời, tổng cộng là 9 năm.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng Giêng năm Giáp Ngọ (1234), Thượng hoàng Trần Thừa mất, thọ 51 tuổi, táng ở Thọ Lăng phủ Long Hưng (tỉnh Thái Bình), miếu hiệu là Huy Tông, thụy hiệu là Khai Vận Lập Cực Hoằng Nhân Ứng Đạo Thuần Chân Chí Đức Thần Vũ Thánh Văn Thùy Dụ Chí Hiếu Hoàng Đế.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng Giêng năm Mậu Thân (1248), vua Trần Thái Tông đổi miếu hiệu của ông từ Huy Tông thành Thái Tổ, đổi gọi Thọ Lăng thành Huy Lăng. Việc truy tôn miếu hiệu cho Thượng hoàng thành Thái Tổ không chỉ thể hiện tấm lòng hiếu kính của nhà vua mà còn là sự ghi nhận công lao to lớn của Trần Thừa được hậu nhân tôn là người sáng lập triều đại Đông A.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Cao thủ “ẩn thân” ngồi trong màn trướng định thời cuộc</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Thừa là con trưởng của Trần Lý, anh trai của Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung (còn có tên là Trần Nhị Nương, hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông, mẹ của nữ đế Lý Chiêu Hoàng). Ông cũng là anh họ của Trần Thủ Độ và là cháu gọi Tô Trung Từ (trọng thần triều Lý) bằng cậu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1209 vua Lý Cao Tông nhu nhược bất tài, chơi bời vô độ, bỏ bê triều chính, nghe lời gièm pha giết hại trung thần dẫn đến nạn Quách Bốc xảy ra, thiên hạ đại loạn. Thái tử Lý Hạo Sảm chạy nạn về Hải Ấp, nơi gia đình Trần Lý cai quản. Thái tử cảm mến Trần Thị Dung bèn lấy làm vợ và phong cho Trần Lý tước Minh tự. Nhân có chính lệnh, Trần Lý cùng em vợ là Tô Trung Từ (đang làm quan trong triều) phát triển lực lượng để đánh Quách Bốc. Lúc đó, Trần Thừa cùng em trai Trần Tự Khánh và em họ Trần Thủ Độ tham gia vào quân đoàn Hải Ấp. Năm sau (1210), Tô Trung Từ và Trần Lý đánh bại Quách Bốc nhưng Trần Lý tử trận. Trần Thừa là con trưởng song người con thứ hai của Trần Lý tức Trần Tự Khánh lại trở thành người lãnh đạo họ Trần. Có giả thuyết rằng Trần Thừa là con trưởng nhưng dòng thứ xuất, Trần Tự Khánh là con dòng đích nên được kế tục. Có người lại suy đoán Trần Tự Khánh là em nhưng có tài cầm quân, có năng lực hơn nên được Trần tộc chọn làm người kế nhiệm. Dù là vì lý do nào thì cũng từ đó, trong suốt 13 năm, Trần Thừa là người đứng sau em trai Trần Tự Khánh dẫn dắt đội quân họ Trần. Nhờ có sức mạnh quân sự, họ Trần chiếm ưu thế đánh thắng các thế lực cát cứ địa phương lại là ngoại thích của vua, dần dần Trần Tự Khánh và Trần Thừa nắm trọn quyền lực trong triều đình vua Lý Huệ Tông. Trong khi Trần Tự Khánh là Thái uý, võ tướng xông pha trận mạc thì Trần Thừa là Nội thị phán thủ hầu cận hoàng đế xử lý các việc ở hậu phương.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1223, Trần Tự Khánh đột ngột qua đời, Trần Thừa được Lý Huệ Tông phong làm Thái úy Phụ chính, ông cùng với người em họ Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ thao túng triều đình. Trần Tự Khánh nắm quyền hơn 7 năm vua Lý Huệ Tông tuy không có thực quyền song vẫn được yên vị. Nhưng từ khi Trần Thừa lên phụ chính thì chỉ trong vòng 2 năm sau nhà Lý mất ngôi về tay họ Trần. Từ việc sắp đặt cho Thuận Thiên công chúa lấy Trần Liễu, con trai trưởng của Trần Thừa tới sự kiện vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái út Chiêu Thánh công chúa năm 1224 để xuất gia tu hành, từ việc an bài cho Trần Cảnh, con trai thứ kề cận Lý Chiêu Hoàng tới việc Nữ đế cưới Trần Cảnh khi mới chỉ là đứa trẻ 6 tuổi rồi nhường ngôi cho chồng năm 1225, hậu thế về sau thường nhắc tới là do Thái sư Trần Thủ Độ mưu tính sắp đặt. Nhưng nếu suy xét kỹ lưỡng đều có thể nhận ra “ván cờ” chuyển giao quyền lực chóng vánh từ nhà Lý sang nhà Trần chẳng thể thiếu phần bàn tay đặt đường đi nước bước của Trần Thừa, người lãnh đạo họ Trần khi đó.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử chép tháng 8 năm 1226, lo sợ lòng dân nhớ vua cũ, với ý đồ “nhổ cỏ tận gốc”, Trần Thủ Độ bức tử vua Lý Huệ Tông lúc này đã là Huệ Quang đại sư tu hành ở chùa Chân Giáo. Thời điểm đó vua Trần Thái Tông đã ở ngôi gần một năm, vua cũ Lý Chiêu Hoàng đã trở thành Chiêu Thánh hoàng hậu, Lý Huệ Tông đã mất ngôi cũng chẳng có gì trong tay hơn 2 năm rồi và triều đình nhà Trần cũng không hề gặp phải sự kháng cự uy hiếp của thế lực nào. Vậy thì tại sao nhất định ép Lý Huệ Tông phải chết? Người viết mạo muội suy đoán rằng ngoài lý do dẹp trừ hậu hoạ thì còn là bởi Lý Huệ Tông còn sống thì vẫn đang có danh vị Thái thượng hoàng và Trần Thị Dung vẫn là đương kim Thái hậu. Chỉ khi Lý Huệ Tông chết rồi thì ngôi vị Thái thượng hoàng mới bỏ trống và Trần Thị Dung không còn là Thái hậu, lúc đó Trần Thừa và gia quyến mới có chính danh bước vào làm chủ hoàng cung.&nbsp;</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngay sau cái chết của Lý Huệ Tông, tháng 10 năm đó, Trần Thừa được vua Trần Thái Tông tôn làm Thái thượng hoàng, ngự ở Phụ Thiên cung, chính thất Lê thị được tôn làm Quốc Thánh Hoàng thái hậu, gia quyến theo vào hoàng cung. Đồng thời Thái hậu Trần Thị Dung lập tức bị vua giáng xuống thành Thiên Cực công chúa và gả cho Trần Thủ Độ rồi được ban danh xưng mới là Linh Từ Quốc mẫu. Hẳn ai cũng thừa hiểu mọi chiếu chỉ của nhà vua thời điểm đó thực ra đều là ý chỉ của Thái thượng hoàng. Để tác thành hôn sự cho Trần Thủ Đô, Trần Thừa đã chấp nhận hôn nhân nội tộc và gả em gái cho em họ con chú của mình. Đó là hôn sự mở đầu rồi trở thành thông lệ về sau của hoàng tộc nhà Trần chỉ cho phép kết hôn trong nội tộc nhằm ngăn ngừa rủi ro đến từ ngoại thích khác họ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dường như những việc khuất tất, thị phi của họ Trần trong các sự kiện diễn ra dưới thời vua Trần Thái Tông người ta đều nghĩ ngay là mưu tính của Thái sư Trần Thủ Độ. Nhưng theo những gì chép lại về sự biến năm 1336, Trần Thủ Độ ép vua Trần Thái Tông phế Chiêu Thánh hoàng hậu và lập Thuận Thiên công chúa (chị của Chiêu Thánh, chị dâu của Trần Cảnh, vợ của Trần Liễu) đang mang thai 3 tháng làm hoàng hậu,&nbsp; khi Trần Liễu làm phản bất thành tìm đến thuyền Trần Thái Tông xin hàng, Trần Thủ Độ muốn giết Trần Liễu nhưng vua lấy thân mình che cho anh và hoà giải, Thủ Độ tức lắm, ném gươm xuống sông nói: <i>"Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?".&nbsp; </i>Từ câu nói của Trần Thủ Độ có thể suy luận trước kia ông ấy rất có thể chỉ là người đứng ra thực thi chứ chưa chắc đã là người quyết định mọi việc trong Trần tộc. Để có được một người họ hàng và cũng là bề tôi trung thành sẵn sàng hành động, đứng ra gánh lấy tiếng xấu như Trần Thủ Độ thì Trần Thừa phải là cao thủ chính trường, bậc thầy mưu kế, giỏi thu phục nhân tâm mới có thể ẩn thân nơi màn trướng mà lấy được lòng người, định cuộc thiên hạ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Bậc thầy “mỹ nhân kế”, Đế vương đa tình</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Thừa là bậc thầy mưu kế, trong cuộc đời mình ông đã nhiều lần sử dụng mỹ nhân kế để đối phó tiêu diệt kẻ thù và thu phục tướng dưới trướng. Năm 1211, khi em họ ông là Tô thị (con gái của Tô Trung Từ) tố cáo việc bộ tướng của Tô Trung Thừa là Nguyễn Trinh giết chồng cướp vợ, ông lập mưu sai Tô thị dụ Nguyễn Trinh đến và giết chết. Năm 1226, Trần Thừa đem gả em gái là cựu Thái hậu Lý triều cho Trần Thủ Độ củng cố lòng trung thành sống chết vì cơ nghiệp nhà Trần của Thủ Độ. Năm 1228, triều đình đem Ngoạn Thiềm công chúa gả cho Nguyễn Nộn thế lực cát cứ còn lại sau cùng để ngầm dò la tin tức. Và hẳn là còn nhiều sự việc “ban hôn” khác mà sử sách không ghi chép lại.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Giỏi sử dụng mỹ nhân kế, đồng thời Trần Thái Tổ cũng là vị Đế vương đa tình. Toàn thư chép năm 1226 ngay sau khi vua Trần Thái Tông tôn cha làm Thái thượng hoàng liền ra sắc lệnh tuyển thục nữ trong dân gian sung làm cung nhân. Theo các tư liệu ghi nhận ông có ít nhất 5 người con trai (Trần Liễu, Trần Cảnh, Trần Nhật Hiệu, Trần Bà Liệt, Trần Di Ái) và 3 người con gái (Thuỵ Bà công chúa, Ngoạn Thiềm công chúa, Thiên Thành công chúa). Trong đó riêng Trần Bà Liệt là con rơi tới tận năm 1232 mới được nhận. Chuyện kể rằng Bà Liệt là kết quả của mối tình phong lưu thưở hàn vi khi Thượng hoàng còn làm tướng quân với người con gái ở thôn Bà Liệt (Tây Chân, Nam Định). <i>Bà Liệt lớn lên, mặt mũi khôi ngô, giỏi võ nghệ, xin sung vào đội đánh vật. Có một hôm Bà Liệt cùng với người trong đội đánh vật, người kia vật ngã Bà Liệt, bóp hầu gần nghẹt thở, Thượng hoàng trông thấy thét to lên rằng: “Con ta đấy”. Người ấy sợ lạy tạ. Ngay ngày hôm ấy Thượng hoàng nhận Bà Liệt làm con, vua bèn phong cho Bà Liệt làm Hoài Đức Vương.</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Thái Tổ Trần Thừa chính là người khai mở và đặt nền móng vững chắc cho triều đại hào khí Đông A kéo dài 175 năm với 12 đời hoàng đế. Những gì ông thực hiện trong cách thức cai trị đất nước, chủ trì gia sự để lại ảnh hưởng rất lớn tới các thế hệ quân vương kế tiếp, từ việc khuyến khích đạo Phật, chính sách đối nội đối ngoại, lệ các vua nhà Trần sớm nhường ngôi cho con rồi lên làm Thái thượng hoàng cùng vua con cai trị đất nước, quy định kết hôn trong nội tộc… đều được duy trì suốt triều đại. Ghi chép về vị Thái tổ đặc biệt này không nhiều, ông được nhắc đến chủ yếu ở vai trò là cha của vua Trần Thái Tông mà ít được nói đến trong những thành tựu hay các sự biến quan trọng diễn ra trong công cuộc chuyển ngôi và xây dựng cơ nghiệp nhà Trần. Song không thể không thừa nhận Thái Tổ Trần Thừa quả thực rất tài năng, giỏi mưu lược và có phong thái đế vương thượng võ, khoáng đạt, được lòng người.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-12-thai-su-tran-thu-do-doi-dieu-he-lo"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 12 Thái Sư Trần Thủ Độ: Đôi Điều Hé Lộ</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Khi nhắc đến thời đại Đông A, hậu thế đều biết đến tiếng tăm lẫy lừng của thái sư Trần Thủ Độ, người có&nbsp; công lớn trong việc chuyển giao ngai vàng từ họ Lý về tay họ Trần. Nếu như Trần Thủ Độ được coi là người hoàn tất công cuộc chuyển giao thì anh họ của ông, Trần Tự Khánh chính là người mở ra con đường đi tới ngôi vua cho họ Trần. Thuỵ hiệu Kiến Quốc Đại vương được truy phong sau khi vua Trần Thái Tông lên ngôi chính là sự ghi nhận những đóng góp của Trần Tự Khánh với cơ nghiệp nhà Trần.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/dfc23f7355b3c15dd48d983a4853e23ed862c4610b1d35fba7d1f98bda20ff7e.jpg"alt="14. Tran Tu Khanh.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Loạn thế sinh anh hùng</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Trần Tự Khánh là con thứ hai của Trần Lý, em của Thái Tổ Trần Thừa và là anh của Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung. Trần Tự Khánh lớn lên trong thời kỳ suy yếu của triều đình nhà Lý, vua Lý Cao Tông chơi bời vô độ, bỏ bê triều chính, quan lại tham ô ra sức bóc lột, dân chúng khốn cùng, nạn cướp bóc nổi lên, loạn lạc triền miên. Khắp nơi các tướng lĩnh, hào trưởng địa phương nhân lúc loạn lạc nuôi ý định xây dựng lực lượng riêng, trong đó có cha Trần Tự Khánh là Trần Lý ở vùng Hải Ấp.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1209, vua Cao Tông nghe lời gian thần Phạm Du, xử oan tướng Phạm Bỉnh Di khiến cho thuộc hạ của Bỉnh Di là Quách Bốc bất bình, nổi loạn. Trước tình thế đó, vua Cao Tông theo Phạm Du chạy trốn về Tam Nông (Phú Thọ), còn Thái tử Sảm (tức vua Lý Huệ Tông) cùng mẹ là An Toàn Hoàng hậu và hai em gái chạy về quê ngoại vùng Hải Ấp (Thái Bình) rồi được cha Trần Tự Khánh là Trần Lý và cậu ruột ông, Tô Trung Từ phò tá. Quách Bốc đem quân vào nội điện thì cả Vua và Thái tử đều bỏ trốn, liền tôn hoàng thứ tử là Lý Thầm mới 8 tuổi làm vua. Nghe tin, Trần Lý và Tô Trung Từ bèn tôn Thái tử Sảm làm vua, xưng là Thắng vương. Thái tử Sảm lấy con gái của Trần Lý là&nbsp;Trần Thị Dung làm vợ và phong cho Trần Lý tước Hải Minh Tự, Tô Trung Từ làm Điện tiền Chỉ huy sứ. Nhân có chính lệnh của Thái tử, Trần Lý có chính danh phát triển lực lượng để đánh Quách Bốc. Lúc này, Trần Tự Khánh trở thành cánh tay đắc lực trợ giúp cho cha và cậu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1210, Tô Trung Từ và Trần Lý đánh bại Quách Bốc nhưng Trần Lý tử trận. Tô Trung Từ sai người đến Hải Ấp rước Thái tử Sảm đưa về kinh sư. Trần Tự Khánh tuy là con thứ nhưng thay cha thống lĩnh đội quân họ Trần. Có người suy đoán Trần Tự Khánh trở thành người kế nhiệm cha có thể vì Tự Khánh tuy là em nhưng là con đích còn người anh Trần Thừa là dòng thứ xuất. Lại có ý kiến cho rằng bởi Trần Tự Khánh thông thạo binh pháp, có tài cầm quân, tướng tá quân sĩ đều theo phục nên được chọn làm người lãnh đạo họ Trần. Quả thật những gì diễn ra về sau đã cho thấy Trần Tự Khánh không hổ danh là vị tướng tài hiếm có trong thời loạn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 10 năm 1210, vua Cao Tông băng hà, Thái tử Sảm lên ngôi, tức vua Lý Huệ Tông. Huệ Tông lập Trần Nhị Nương làm Nguyên phi, Tô Trung Từ được phong làm Thái uý cùng với Đàm Dĩ Mông coi việc triều chính, Trần Tự Khánh được phong tước Chương Thành hầu. Để đánh bại Quách Bốc, phò tá vua Lý hồi kinh, họ Trần đã phải hy sinh biết bao xương máu, của cải, bản thân Trần Tự Khánh đã mất cha trong chiến trận. Thế nhưng khi luận công khen thưởng, ông cậu Tô Trung Từ trở thành đại thần đầu triều còn đứa cháu Trần Tự Khánh thì chỉ phong “hầu” làm “bá” địa phương chứ chẳng được tham chính. Rất có thể lúc này trong nội bộ gia đình họ đã có lục đục giữa ông cậu họ Tô và những đứa cháu họ Trần.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 7 năm 1211, Tô Trung Từ đang đêm sang Gia Lâm tư thông với công chúa Thiên Cực, bị quan nội hầu Vương Thượng là chồng công chúa giết chết. Tô Trung Từ sau khi trở thành quyền thần lại rơi vào cái kết ham sắc hại thân y hệt cái chết của gian thần Phạm Du khi trước. Cái chết của Tô Trung Từ một lần nữa khiến kinh thành hỗn loạn, các bộ tướng của Tô Trung Từ là Nguyễn Tự, Nguyễn Trinh làm phản tự tách thế lực riêng, con rể Tô Trung Từ là Nguyễn Ma La cũng bị Nguyễn Trinh giết hại. Lực lượng của họ Tô Trung tan rã.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhân lúc kinh thành bỏ trống, Trần Tự Khánh kéo quân về kinh sư, an táng cho người cậu Tô Trung Từ. Từ đó, chiến sự giữa các sứ quân ở cả kinh thành lẫn thế lực cát cứ địa phương ngày càng ác liệt và cuối cùng Trần Tự Khánh thắng thế, anh em họ Trần nắm quyền khống chế triều đình nhà Lý. Có thể thấy ở điểm xuất phát, Trần Tự Khánh không có nhiều lợi thế so với các thế lực khác, song bằng tài thao lược, bản lĩnh chiến đấu thực thụ của mình, ông cùng với đội quân họ Trần đã giành được quyền kiểm soát kinh sư và triều đình vua Lý.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Gian hùng “phản trắc” phế lập ngôi vua</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Việc Trần Tự Khánh tự ý kéo quân về kinh sư khi chưa có lệnh vua với danh nghĩa an táng cho cậu Tô Trung Từ đã khiến các thế lực khác có cớ vu với vua Lý Huệ Tông rằng ông đem quân về kinh sư là muốn mưu đồ phế lập. Có một số tư liệu ghi rằng năm 1211, <i>“Đàm Thái hậu ngờ vực Trần Tự Khánh có ý phế lập ngôi vua. Bà bèn đem ba Hoàng tử: Nhân Quốc vương, Lục hoàng tử và Thất hoàng tử con của Cao Tông với các thị thiếp khác dìm đầu chết ở sau giếng trong cung. Rồi sai đem xác cả ba người vứt ra ngoài thành. Quần thần đều sợ Thái hậu không ai dám can. Thế là ngôi vị của Huệ Tông được giữ vững mà không sợ bị phế lập</i>.”&nbsp; Vua Lý Huệ Tông nghi ngờ Trần Tự Khánh nên giáng Nguyên phi Trần thị xuống làm Ngự nữ và hạ chiếu cho các đạo binh khác đánh quân Trần Tự Khánh. Huệ Tông loay hoay dựa vào ngoại thích họ Đàm, lúc ngả theo họ Đoàn, khi chọn theo họ Nguyễn nhưng mấy lần xuất quân đều thua trận, phải đem Hoàng thất bỏ chạy lên Lạng Châu. Trần Tự Khánh cũng mấy lần đem thư tạ tội và xin đón xa giá nhà vua nhưng Huệ Tông từ chối và tiếp tục bỏ chạy. Có thể ở thời điểm đó quả thực Trần Tự Khánh không có ý đồ phế lập mà chỉ muốn nhà vua chọn theo họ Trần. Một phần vì có em gái là sủng phi của vua, một phần không muốn mang danh loạn thần tặc tử nên Trần Tự Khánh vừa đánh vừa xoa để buộc nhà vua về với mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1214, không đón được vua Huệ Tông về kinh, Trần Tự Khánh triệu tập các vương hầu, bá quan bàn việc cải lập, sai người đón một người con của vua Lý Anh Tông lập làm Nguyên vương, lấy chính danh tiếp tục đánh các sứ quân khác. Trần Tự Khánh đưa vua mới về hành cung Lý Nhân rồi bao vây Thăng Long, lấy hết tài sản, đốt phá cung điện, ngày vua Huệ Tông trở lại hoàng cung phải dựng lều tranh để ở. Trong lúc đó vua Lý Huệ Tông mắc kẹt giữa mẹ và vợ, sử chép: <i>"Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc nên thường chỉ Trần thị mà nói là bè đảng của giặc, bảo nhà vua phải đuổi bỏ đi. Sau đó, bà lại sai người nói với Trần thị phải tự sát, nhà vua biết bèn ngăn lại. Lại khi Thái hậu cho người lén bỏ thuốc độc vào món ăn uống của Trần thị, nhà vua biết ý của mẹ mình, vì vậy mỗi bữa ăn ông thường chia cho Trần thị một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh. Đủ mọi cách thất bại khiến Đàm Thái hậu không nhịn nữa, bà trực tiếp sai người đem thuốc độc bắt Trần thị phải uống, nhà vua phải can ngăn mãi mới thoát được."</i> Trước sự hà khắc, tàn nhẫn của Thái hậu, vào tháng 5 năm 1216, vua Lý Huệ Tông đưa vợ đang mang thai chạy trốn khỏi hoàng cung, lẻn đến chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh ở bãi Cửu Liên. Từ đấy Huệ Tông dựa vào họ Trần. Đón được nhà vua, Trần Tự Khánh bèn phế Nguyên vương mà mình đưa lên ngôi xuống làm&nbsp;Huệ Văn vương.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 12 năm 1216, Thuận Trinh phu nhân Trần thị được vua Lý Huệ Tông phong làm Hoàng hậu. Từ lúc đó, anh em, thân thuộc họ Trần chiếm hết các chức văn võ quan trọng trong triều: Trần Tự Khánh làm Thái úy, Trần Thừa được phong tước Liệt hầu làm nội thị phán thủ; con cả Tự Khánh là Trần Hải được phong tước Hiển Đạo vương, Trần Liễu (con cả Trần Thừa) được tước Quan nội hầu. Nắm quyền lớn trong tay, bằng đủ loại kế sách từ mỹ nhân kế tới chia rẽ nội bộ, chiêu hàng, đánh dẹp… tới năm 1223, về cơ bản Trần Tự Khánh đã bình định hầu hết các thế lực cát cứ chống triều đình, chỉ còn Nguyễn Nộn ở Bắc Giang và Đoàn Thượng ở Hồng Châu chưa trừ bỏ được hẳn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Giữa đường đứt gánh, tham vọng dở dang…</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 12 năm 1223, Trần Tự Khánh đột ngột qua đời ở Phù Liệt khi mới ở tuổi 40, không rõ vì nguyên do gì. Quyền bính trong triều được giao cho anh trai ông là Trần Thừa, người kế tục chức vị Thái úy và em họ ông là Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ. Có nguồn sử liệu ghi rằng trước đó, <i>“vào tháng 11 năm 1222, vua Lý Huệ Tông cùng Đàm thái hậu ngự ở điện Thiên An, con của Trần Tự Khánh là Hiển Đạo vương Trần Hải dâng nạp lễ vật cầu hôn Thuận Thiên công chúa”</i>. Người viết mạo muội cho rằng, tới năm 1222 có lẽ Trần Tự Khánh và họ Trần đã bắt đầu mưu tính chuyển giao ngai vàng. Tuy có em gái là Hoàng hậu nhưng không sinh được con trai, vua Huệ Tông mắc bệnh nặng lại chỉ có hai con gái là trưởng công chúa Thuận Thiên và nhị công chúa Chiêu Thánh (Nữ đế Lý Chiêu Hoàng sau này). Lúc bấy giờ việc anh chị em bên ngoại kết hôn với nhau là bình thường nên mặc dù cả Trần Hải và các công chúa đều còn nhỏ (Thuận Thiên mới 6 tuổi), Tự Khánh đã xin ban hôn để giành lấy vị trí trưởng phò mã cho Trần Hải. Đáng tiếc là việc chưa thành thì ông đột ngột qua đời, bỏ dở giữa đường sự nghiệp thống nhất đất nước lẫn tham vọng tiến tới ngai vàng của họ Trần. Tự Khánh chết thì con trai Trần Hải cũng mất đi chỗ dựa mà thất thế, mối hôn sự tốt đẹp với Trưởng công chúa cuối cùng rơi vào tay Trần Liễu, con trưởng của Trần Thừa mặc dù lúc đó Trần Liễu đã có chính thất. Từ đó về sau trong sử sách không còn thấy dòng ghi chép rõ ràng nào về Trần Hải cũng như hậu duệ của Trần Tự Khánh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Các sử gia thống nhất rằng: Xét toàn cục trong thời loạn lạc cuối nhà Lý, công dẹp Quách Bốc và các hào trưởng địa phương khiến họ Trần trở thành người thay thế họ Lý xứng đáng hơn cả; trong đó có sự đóng góp lớn nhất của Trần Tự Khánh. Quyền lực chính quyền trung ương lại dần dần tập trung, củng cố dưới sự lãnh đạo của họ Trần. Tình hình yên ổn và vị thế khá vững vàng của họ Trần trong triều tạo điều kiện cho Trần Thủ Độ sau đó thực hiện việc chuyển ngôi chính thức từ họ Lý sang họ Trần. Chẳng những cha con Trần Thừa, Trần Cảnh mà ngay cả Trần Thủ Độ cũng được thừa hưởng cơ nghiệp của ông để lại. Nói về sự kiện thay ngôi nhà Lý, "bàn tay" của Trần Thủ Độ được nhắc tới nhiều hơn cả, nhưng công lao "dọn chướng ngại" cho Thủ Độ hành động thuộc về Trần Tự Khánh.” (Trích Wikipedia)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Để nói về Trần Tự Khánh, người viết cho rằng gọi ông là anh hùng thời loạn, đội trời đạp đất, bình định thống nhất đất nước thì rất xứng đáng, mà nói ông là kẻ gian hùng không từ thủ đoạn chèn ép quân vương mưu đoạt hoàng quyền cũng chẳng hề sai. Đại nghiệp dở dang Trần Tự Khánh để lại đã được Trần Thừa cùng Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung hoàn tất trong hai năm sau khi ông qua đời. Có lẽ ở thời kỳ suy tàn của triều đại họ Lý thì sự xuất hiện của một nhân vật như Trần Tự Khánh là điều tất yếu để mở đường cho một triều đại mới đảm đương vai trò lãnh đạo đất nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-11-thai-to-tran-thua-ngoi-trong-man-truong-dinh-thoi-cuoc"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 11 Thái Tổ Trần Thừa: Ngồi Trong Màn Trướng Định Thời Cuộc</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Hậu thế nhiều người gọi Đàm Thái hậu là “Thái hậu tàn ác bậc nhất sử Việt” giết con riêng chồng, hạ độc con dâu đang mang thai cũng không hề sai. Tước vị của bà là An Toàn Hoàng hậu/Hoàng thái hậu song có lẽ cả cuộc đời bà sống trong bất an và chính bà cũng gây “mất an toàn” cho nhiều người khác. Ở Thái hậu có thể nói tốt xấu đan xen, thiện ác lẫn lỗn, chính tà khó phân và thường bị mang tiếng xấu trong mắt hậu thế. Song chúng ta cũng không thể phủ nhận tình mẫu tử mà bà dành cho con trai - vua Lý Huệ Tông là có thật.&nbsp;</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/56ba908b39c5c058f769de7335a5ee0fa798f62a04b8bcdf54a97e741ca8ab15.jpg"alt="Dam thai hau.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Từ con gái tướng quân tới Mẫu nghi chạy loạn</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>An Toàn Đàm Thái hậu là Hoàng hậu của vua Lý Cao Tông, mẹ vua Lý Huệ Tông. Bà là con gái của tướng quân Đàm Thì Phụng. Tháng 3 năm 1186, bà được Lý Cao Tông sách phong làm An Toàn Nguyên phi tức người vợ nguyên phối của vua. Lúc bấy giờ Cao Tông còn nhỏ, mới 13 tuổi. Tuy sử không chép rõ về hành trạng cũng như thế lực của cha bà, song có thể thấy bà đã sớm bước vào cuộc hôn nhân chính trị khi chồng bà còn chưa thành niên. Vua Cao Tông có nhiều phi tần nhưng ngôi hoàng hậu bỏ trống tới tận 8 năm sau, năm 1194 khi Nguyên phi hạ sinh đích trưởng tử Lý Hạo Sảm (tức vua Lý Huệ Tông), bà mới được sắc phong làm An Toàn Hoàng hậu. Khác với lệ thường của các vua đời trước sớm định ngôi Thái tử cho con trưởng, vua Cao Tông không lập Lý Hạo Sảm làm Hoàng thái tử ngay, mãi tới năm 1208 vua mới sách lập hoàng tử Sảm làm Hoàng thái tử (lúc này Thái tử đã 15 tuổi). Tư liệu còn lại tuy ít ỏi, song với những sự kiện đó người viết mạo muội cho rằng vua Lý Cao Tông cũng không mấy mặn mà với mẹ con bà nên mới có sự trì hoãn việc sách lập ngôi vị Hoàng hậu và định ngôi Thái tử nhiều năm như vậy.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử chép vua Cao Tông lên ngôi khi mới 3 tuổi, lúc trưởng thành bắt đầu trực tiếp cầm quyền trị nước vua lại sinh ra ham mê săn bắn, chính sự pháp luật không rõ ràng, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch nên trộm cướp nổi lên khắp nơi. Từ năm 1189 tới năm 1207 suốt 18 năm vua rong chơi vô độ, xây đền đài không ngớt làm cho dân chúng lầm than, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy yếu. Trong những tháng ngày đó, ở cạnh người chồng là một hôn quân như vậy, Đàm Hoàng hậu buộc phải dấn thân vào cuộc chiến chốn thâm cung để đảm bảo an toàn cho địa vị của mình cũng như giành lấy ngôi vị Trữ quân cho con trai mặc dù vốn dĩ con bà đã là dòng đích. Xuất thân là con gái tướng quân, lớn lên trong gia đình nhà binh có lẽ bà đã quen đối mặt với sinh tử, đã nằm lòng quy tắc “Mạnh được yếu thua”.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Một năm sau khi ngôi vị Thái tử được định thì vua Cao Tông mắc sai lầm nghiêm trọng khi nghe lời gian thần Phạm Du, xử oan tướng Phạm Bỉnh Di khiến cho thuộc hạ của Bỉnh Di là Quách Bốc bất bình, nổi loạn, đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Phạm Du liền giết cha con Phạm Bỉnh Di rồi cùng vua Cao Tông chạy trốn về Tam Nông (Phú Thọ). Trước tình thế loạn lạc, Thái tử Sảm cùng mẹ là An Toàn Hoàng hậu và hai em gái chạy về quê ngoại vùng Hải Ấp, Thái Bình rồi được Trần Lý, Tô Trung Từ phò tá. Quách Bốc đem quân vào nội điện thì cả vua Cao Tông và Thái tử Sảm đều bỏ trốn, liền tôn hoàng thứ tử là Lý Thầm mới 8 tuổi lên làm vua. Có thể thấy, trong lúc nguy cấp vua Cao Tông cũng chỉ kịp thoát thân mình chứ chẳng lo được chuyện an nguy của vợ con. Trước tình thế Quách Bốc tự lập vua mới, Trần Lý và Tô Trung Từ lập Thái tử Lý Hạo Sảm làm vua, tôn xưng Thắng vương. Thái tử cảm mến con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung bèn lấy làm vợ và phong chức tước cho Trần Lý cùng Tô Trung Từ, họ Tô và họ Trần có chính danh đem quân đánh dẹp Quách Bốc. Cuối năm 1209, loạn Quách Bốc bị dẹp, Trần Lý tử trận, Phạm Du chết, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông hồi cung. Đầu năm 1210, Cao Tông đau yếu, mới sai người đón Thái tử Sảm và Hoàng hậu cùng hai công chúa về kinh.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Thái hậu chuyên quyền, thẳng tay tàn sát</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng 10 năm 1210, vua Lý Cao Tông chết, Thái tử Sảm nối ngôi, tức vua Lý Huệ Tông, Đàm Hoàng hậu được tôn làm Hoàng Thái hậu. Lúc này vua Huệ Tông đã 17 tuổi. Sử chép Đàm Thái hậu là người cứng rắn, đích thân bà cùng Huệ Tông nghe chính sự, lại phong chú bà là Đàm Dĩ Mông làm Thái sư, cùng Thái hậu trông coi triều chính. Đàm Dĩ Mông là người không có học thức, lại nhu nhược thiếu quyết đoán, mọi việc do Đàm Thái hậu quyết định. Thái hậu là người chỉ nghĩ đến dòng họ và củng cố quyền lực nên không có chính sách gì đối với tình hình quốc gia mà chỉ gia tăng thế lực nhằm củng cố địa vị. Từ đó chính sự nhà Lý càng bất ổn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Triều đại của Lý Huệ Tông là giai đoạn chứng kiến những cuộc đấu đá tranh giành quyền bính, nội chiến liên miên giữa các thế lực quan chức trong triều và cát cứ địa phương: họ Tô, họ Trần, họ Đoàn, họ Nguyễn... Để xảy ra cục diện đó cũng bởi Thái hậu chỉ chăm chăm dùng ngoại thích họ Đàm nhưng người họ Đàm không có tài năng chính trị lẫn quân sự. Đây cũng là cảnh thường thấy trong các thời vua Lý cuối triều đại, khi ấu chúa lên ngôi, Thái hậu nhiếp chính đem quyền bính giao cho ngoại thích lặp lại từ các đời vua Lý Anh Tông, Cao Tông, Huệ Tông và cả Chiêu Hoàng. Có lẽ các Thái hậu vốn đi lên từ nội chiến hậu cung để giành lấy địa vị cho mình, ngai vàng cho con lại thiếu tầm nhìn toàn cục, thiếu tài trị quốc, họ chỉ là người mẹ lo giữ ngai vàng cho đứa con còn non nớt của mình nên họ chọn dựa vào người thân tin vào người nhà để rồi trao trọng trách cho những người không đủ tài đức làm đất nước ngày càng suy vi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đàm thái hậu cũng vậy, để tranh giành quyền lực, để giữ ngôi quân vương, bà thẳng tay diệt trừ bất cứ kẻ nào có khả năng ngáng đường cản trở. Theo một số tư liệu (ĐVSKTT không chép sự việc này), năm 1211, <i>“Đàm Thái hậu ngờ vực Trần Tự Khánh có ý phế lập ngôi vua. Bà bèn đem ba Hoàng tử; Nhân Quốc vương, Lục hoàng tử và Thất hoàng tử con của Cao Tông với các thị thiếp khác dìm đầu chết ở sau giếng trong cung. Rồi sai đem xác cả ba người vứt ra ngoài thành. Quần thần đều sợ Thái hậu không ai dám can. Thế là ngôi vị của Huệ Tông được giữ vững mà không sợ bị phế lập</i>.” Ở một góc nhìn khác, người viết cho rằng rất có thể chính từ cái “nhân” của sự việc tàn ác này mà dẫn đến “quả” về sau vua Huệ Tông không con nối dõi, có nét tương đồng với sự kiện Thái hậu Ỷ Lan bức tử Thượng Dương thái hậu và 72 cung phi, đoạt quyền nhiếp chính về sau vua Lý Nhân Tông tuy là bậc quân vương tài đức nhưng không có con nối dõi phải lập cháu trai nối ngôi. Bên cạnh đó việc Thái hậu tàn sát các em trai của vua đã đẩy Lý Huệ Tông vào thế ông vua cô độc, không có anh em giúp đỡ và có lẽ cũng làm suy giảm lòng trung thành của tôn thất Hoàng tộc với nhà vua.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vòng xoáy quyền lực là thứ mà một khi đã bước chân vào thì kẻ nào cũng bị cuốn theo. Đàm Thái hậu tin dùng ngoại thích họ Đàm nhà mình song rất ghét ngoại thích họ Trần nhà con dâu. Có thể bà ấy nhìn thấy nguy cơ soán ngôi vua của họ Trần song theo người viết thì phần nhiều là bà ấy thấy thế lực họ Trần ngày càng lớn vượt trội so với họ Đàm chẳng có lấy một người tài năng nên nhiều lần mưu tính diệt trừ Trần Tự Khánh. Nhưng dù Thái hậu và Vua chọn họ Đàm, ngả theo họ Đoàn hay dựa vào họ Nguyễn thì cả mấy lần đều thất bại trước họ Trần, khiến cho Thái hậu và Vua phải chạy loạn suốt mấy năm. Nhiều lần Trần Tự Khánh xin đón xa giá nhà vua nhưng Huệ Tông không đồng ý, bèn lập Huệ Văn vương, con của Lý Anh Tông làm vua mới, tôn xưng Nguyên vương song vẫn âm thầm tìm cơ hội thuyết phục Huệ Tông. Năm 1214, Trần Tự Khánh sau khi đánh thắng đối thủ, chiếm phá kinh đô, đốt sạch cung điện. Ngày Huệ Tông được Nguyễn Nộn đón về Thăng Long, vua phải dựng lều tranh để ở.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Khi yêu thương trở thành thuốc độc, tình mẫu tử trước bánh xe thời cuộc</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đầu năm 1216, Huệ Tông lại lập Trần Thị Dung (trước bị giáng xuống Ngự nữ) làm&nbsp;Thuận Trinh Phu nhân (lúc này phu nhân đã mang thai)<i>. “Đàm Thái hậu cho Trần Tự Khánh là kẻ phản trắc, thường chỉ vào Trần Thị Dung mà nói là bè đảng của giặc, bảo Huệ Tông đuổi bỏ đi; lại sai người nói với phu nhân bảo phải tự sát. Huệ Tông biết bèn ngăn lại. Đàm Thái hậu bỏ thuốc độc vào món ăn uống của phu nhân. Mỗi bữa ăn vua chia cho phu nhân một nửa và không lúc nào cho rời bên cạnh.” </i>Thái hậu vì ghét Trần Tự Khánh mà tệ bạc với Trần Thị Dung, vì yêu con trai, muốn giữ con trong tầm kiểm soát an toàn của mình mà quản hết việc triều chính, chi phối con trong mọi quyết định trị quốc và vì lo Huệ Tông bị ái tình sắc dục làm mờ mắt, bà sẵn sàng ra tay hạ độc con dâu cùng cả đứa cháu còn trong bụng mẹ. Mẫu thuẫn lên tới đỉnh điểm khi Đàm Thái hậu sai người cầm chén thuốc độc bắt Trần Thị Dung phải chết. Vua Huệ Tông ngăn lại không cho, rồi đêm ấy cùng với phu nhân lẻn đi đến chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh. Trưởng nữ của Huệ Tông là Thuận Thiên công chúa đã ra đời trong hoàn cảnh đẻ rơi trên đường như vậy. Có thể nói ở góc nhìn của Thái hậu bà ấy làm mọi cách mình có thể để bảo vệ con. Song bà quên mất rằng bà có tình mẫu tử với Huệ Tông thì vua cũng nặng tình phụ tử với con của mình. Bát thuốc độc bà ban cho con dâu là giọt nước tràn ly, đẩy con trai dứt ra khỏi vòng tay bà để bảo vệ vợ con. Từ đấy, Huệ Tông lại dựa vào Trần Tự Khánh và họ Trần. Tháng chạp, mùa đông cùng năm đó, Lý Huệ Tông chính thức sách lập Thuận Trinh Phu nhân Trần thị làm Hoàng hậu và phong tước cho anh em họ Trần nắm toàn bộ quyền bính trong triều. Cũng từ đó Đàm Thái hậu và họ Đàm biến mất trên chính trường. Những chuyện xảy ra sau đó quả thật đã giống như nỗi lo của Đàm Thái hậu. Ngoại thích họ Trần ngày càng lớn mạnh o ép cả vua Huệ Tông. Năm 1224, vua Lý Huệ Tông bị họ Trần ép nhường ngôi cho con gái, tức Lý Chiêu Hoàng rồi xuất gia với pháp danh Huệ Quang Đại sư. Theo một số tư liệu, Đàm Thái hậu đi cùng con trai ra ở chùa Phù Liệt tu hành.&nbsp; Năm 1225, Trần Thủ Độ và Trần Thừa dàn xếp cho Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức vua Trần Thái Tông, lập nên nhà Trần. Năm 1226, lo sợ lòng dân còn nhớ vua cũ, Trần Thủ Độ bức tử vua Lý Huệ Tông. Không có tư liệu nào nói rõ kết cuộc của Đàm Thái hậu ra sao, song người viết cho rằng có lẽ khi vua Lý Huệ Tông qua đời, Đàm Thái hậu cũng ra đi theo con trai mình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Hậu thế nhiều người gọi Đàm Thái hậu là “Thái hậu tàn ác bậc nhất sử Việt” giết con riêng chồng, hạ độc con dâu đang mang thai cũng không hề sai. Tước vị của bà là An Toàn Hoàng hậu/Hoàng thái hậu song có lẽ cả cuộc đời bà sống trong bất an và chính bà cũng gây “mất an toàn” cho nhiều người khác. Ở Thái hậu&nbsp; có thể nói tốt xấu đan xen, thiện ác lẫn lỗn, chính tà khó phân và thường bị mang tiếng xấu trong mắt hậu thế. Song chúng ta cũng không thể phủ nhận tình mẫu tử mà bà dành cho con trai - vua Lý Huệ Tông là có thật. Mặc dù bà yêu con, bảo vệ con sai cách, tình yêu bà cho con lẫn vào cả thuốc độc nhưng có lẽ ở thời điểm đó, trước thế cuộc đó bà cũng đã cố hết sức mình để suy tính, để làm điều mà bà nghĩ là tốt cho con mình. Tình yêu sai lầm ấy dẫn đến kết cục không những không thể cứu vãn mà ngược lại, còn đẩy con bà vào cảnh khốn cùng nhanh hơn. Mà cũng có thể những chuyện đã xảy ra là không thể tránh khỏi ở giai đoạn chuyển giao từ một triều đại đã nhiều năm suy tàn sang một triều đại mới.<b></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:&nbsp;</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-10-kien-quoc-dai-vuong-tran-tu-khanh-anh-hung-hay-gian-hung"><div class="link-title">Nữ Đế Chuyện Chưa Kể: Kỳ 10 Kiến Quốc Đại Vương Trần Tự Khánh: Anh Hùng Hay Gian Hùng?</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>“Làm bạn với vua như đùa với hổ”</i>, đó là câu nói người xưa truyền lại bao đời, qua hàng ngàn năm khi nhắc đến mối quan hệ quân thần. Càng ở gần vua, thân cận với hoàng đế thì quyền lực càng cao, vinh hoa phú quý càng nhiều mà cũng &nbsp;dễ “mất mạng như chơi” không chừng. Quả thực đã có biết bao tấm gương người xưa tích cũ là minh chứng hùng hồn cho câu nói đó. Ấy thế mà, trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam lại có một mối giao hảo quân thần vượt lên lời nhắc nhở thâm sâu kia, đó chính là giao tình giữa vua Trần Thái Tông và Bảo Văn Hầu Lê Tần (được vua ban tên Lê Phụ Trần). Có thể nói cả cuộc đời mình, Lê Tần đã làm bạn với vua như người tri kỷ.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/c111052047a0659da108aeb609fa2d4a01a601fefa7b2d7019d4b59a9dcfe570.jpg"alt="17 Le Phu Tran.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Thần tử dám nói, Thiên tử dám nghe</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lần đầu tiên tên vị danh tướng Lê Tần xuất hiện trong sử sách là ở sự kiện năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 19 (1250), vua Trần Thái Tông cho đặt Ngự sử đài là cơ quan chuyên làm công việc giám sát triều đình, can gián nhà vua, thanh tra, tố giác sai phạm của quan lại nhằm giữ vững kỷ cương phép nước. Bấy giờ vua cho Lê Tần làm Ngự sử trung tướng, tri Tam ty viện sự. Với tính chất công việc đặc thù như vậy, những viên quan được chọn vào Ngự sử đài là những người cương trực, thẳng thắn, dám nói thẳng, nói thật. Ai cũng hiểu, việc vạch ra cái sai, cái xấu, cái đáng phê phán của quan lại đồng liêu là việc dễ gây thù, chuốc oán nhất là đối với các viên quan có địa vị cao hơn mình, rất dễ gánh lấy hậu quả bị trù dập, hãm hại. Vạch cái sai của các quan còn thế, vạch cái sai của các bậc vua chúa quyền uy tối thượng tất nhiên là nguy hiểm hơn nhiều, chẳng khác gì vuốt râu hùm. Những&nbsp; chuyện trung lương nói thẳng, nói thật mà bị cách chức, bị đuổi về quê là diều không hề hiếm bởi “trung ngôn nghịch nhĩ”. Nhưng trách nhiệm của Ngự sử đài là phải nói, phải phản biện trước những lời nói, việc làm, những quyết định trái với kỷ cương phép nước, các quan làm việc ở Ngự sử đài không thể im lặng, cho qua. Bởi nếu như thế thì chính các quan Ngự sử sẽ bị đàn hặc (tố cáo) lại, vì không hoàn thành nhiệm giám sát, can gián.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Bấy giờ, vua Trần Thái Tông 33 tuổi, xét theo các sự kiện về sau người viết đồ rằng, vị quan Ngự sử Lê Tần cũng tầm trên dưới trạc tuổi với vua. Sử chép, Lê Tần xuất thân dòng dõi con cháu vua Lê Đại Hành, quê ở Ái Châu. Không có nhiều thông tin về hành trạng của ông trong chính sử, song để được nhà vua giao chức trách ở cơ quan mới thành lập lại làm công việc đầy thách thức ở Ngự sử đài, chắc hẳn nhà vua rất xem trọng tài năng, khí khái, đức độ và lòng trung thành của Lê Tần. Những sự kiện về sau cũng cho thấy ông hoàn toàn xứng đáng với sự tin tưởng của vua Trần Thái Tông.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vào tháng 12 năm Nguyên Phong thứ 7 (1257), cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt chống Nguyên Mông lần thứ nhất nổ ra. Quân Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Ngột Lương Hợp Thai theo đường từ Vân Nam (Trung Quốc) xuôi xuống sông Hồng tràn vào nước ta. Vua Trần Thái Tông thân hành đốc chiến đụng độ với giặc lần đầu tại Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc ngày nay) vào ngày 12 tháng 12 âm lịch . Sử chép nhà vua và tướng lĩnh đã chiến đấu rất cam đảm, nhưng không thể đánh bại quân Mông Cổ (đội quân đã gieo rắc kinh hoàng cho toàn thế giới lúc bấy giờ). Khi đội quân nhà Trần thất thế, quan quân hơi núng, chỉ có Lê Tần một mình một ngựa, ra vào trận giặc, sắc mặt bình thản như không. Lúc ấy, có người khuyên vua ở lại tử thủ nhưng Lê Tần cố sức can rằng: "<i>Như nay mà ở lại chỉ là bệ hạ dốc túi đánh nước cuối cùng thôi. Hãy nên tạm lánh đi, chớ nên dễ dàng tin lời người ta!</i>" Vua Trần Thái Tông nghe theo, cho lui binh, Lê Tần đi sau cùng để vén quân. Cương mục chép: <i>“Lúc ấy quân Mông Cổ đuổi gấp, bắn tên tứ tung, Phụ Trần lấy cái sạp thuyền che đỡ cho nhà vua được thoát nạn."</i>&nbsp; Qua vài dòng ngắn ngủi sử sách ghi lại, chúng ta có thể thấy Lê Tần không chỉ là dũng tướng can trường mà còn giỏi thao lược, biết người biết ta, trước thế giặc mạnh ông rất dũng cảm đem lời chính trực khuyên can nhà vua lui binh để bảo toàn lực lượng. Họ Trần vốn mang tinh thần thượng võ, gây dựng cơ đồ từ nghiệp nhà binh, đây lại là trận đánh đầu tiên vua thân chinh cự địch nên khó tránh khỏi tâm lý quan quân muốn giành chiến thắng. Nhưng kẻ địch lúc đó quá mạnh, vó ngựa thiện chiến của quân Mông Cổ đã đạp đổ bao nhiêu thành trì, tiêu diệt rất nhiều quốc gia. Về cơ bản tại trận đầu, quân Đại Việt không phải là đối thủ ngang sức với chúng. Nếu như Lê Tần dám thẳng thắn nói lời “nghịch nhĩ” thì vua Trần Thái Tông cũng là minh quân sáng suốt, biết lượng sức mình, đánh giá đúng tình hình và quyết định nghe theo kế sách vẹn toàn. Từ trận Bình Lệ Nguyên, Trần Thái Tông đã xem Lê Tần là tướng lĩnh thân cận, là vị quân sư vua hết mực tin tưởng. Để thoát khỏi tình thế nguy cấp, nhà vua và bộ chỉ huy quyết định thực hiện kế “vườn không nhà trống” di tản lực lượng và dân chúng rời khỏi kinh đô Thăng Long, và lui về sông Thiên Mạc (Hưng Yên) Lê Phụ Trần theo vua bàn những vấn đề cơ mật, hầu như không người nào được nghe.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Quân Mông Cổ chiếm được kinh thành Thăng Long, nhưng gặp phải kế thanh dã, kinh thành trống không chẳng có gì cho chúng vơ vét.&nbsp; Do thiếu lương thực trầm trọng, chúng phải chia quân đi cướp bóc ở vùng ngoại vi và phụ cận nhưng bị nhân dân Đại Việt chặn đánh quyết liệt. Quân Mông Cổ chịu tổn thất nặng nề. Trong khi đó, quân chủ lực Đại Việt đã được chỉnh đốn và hồi sức sau thất bại đầu tiên. Tới ngày 24 tháng 12 năm đó, vua Trần Thái Tông cùng Thái tử Trần Hoảng thúc quân phản kích vào bến Đông Bộ Đầu, đánh tan quân Mông Cổ buộc chúng&nbsp;phải rút quân khỏi Thăng Long và tháo chạy về Vân Nam.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Người bạn san sẻ nỗi lòng Đế vương</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau ngày quân dân Đại Việt ca khúc khải hoàn trở lại Thăng Long, Đại Việt sử ký toàn thư chép “<i>Năm 1258, mùa xuân tháng Giêng, ngày mồng 1, vua Trần Thái Tông định công phong tước, ban tên cho Lê Tần là Lê Phụ Trần, phong làm Ngự sử đại phu, tước Bảo Văn hầu; lại đem Chiêu Thánh công chúa gả cho. Thái Tông nói: "Trẫm không có khanh, thì làm gì được có ngày nay. Khanh hãy cố gắng để cùng hưởng phúc về sau".” </i>Cũng trong tháng Giêng, vua sai Lê Phụ Trần và Chu Bác Lãm sang sứ nhà Nguyên.<i> “Khi ấy sứ Nguyên sang đòi của dâng hàng năm, tăng thêm vật cống. Bàn tính phân vân không quyết định, vua sai Lê Phụ rần sang sứ, Bác Lãm làm phó, rốt cuộc định 3 năm một kỳ cống làm lệ thường.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tháng sau, vào<i> “ngày 24 tháng 2, vua Trần Thái Tông truyền ngôi cho Hoàng thái tử Trần Hoảng (tức vua Trần Thánh Tông) và lui về cung Thánh Từ làm Thái thượng hoàng.”</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Việc Trần Thái Tông ban cho Lê Tần tên “Phụ Trần” mang ý nghĩa công thần phò tá nhà Trần là sự ghi nhận công lao to lớn của ông trong cuộc chiến chống Nguyên Mông giúp vua giữ nước. Đó cũng là lời nhắn nhủ tới vị trung thần, người bạn tâm giao gắng sức phò trợ, đồng hành cùng quân vương. Lê Tần không có xuất thân hoàng tộc nhưng có thể nói vua đã xem ông như người thân thích. Thế nhưng quyết định đem vợ cũ của vua là Chiêu Thánh công chúa ban hôn cho công thần Lê Tần không tránh khỏi việc vấp phải rất nhiều tranh cãi, gièm pha và dị nghị của người đương thời lẫn các sử gia hậu thế. Có lẽ chỉ có Phụ Trần là người khiến nhà vua an tâm, tin tưởng để gửi gắm Lý Chiêu Hoàng, người vợ mà vua nợ cả cuộc đời. Và cũng chỉ có Phụ Trần mới có đủ bản lĩnh, đủ tài đức để gánh vác mối hôn sự khác thường, kết duyên với người con gái từng là Nữ đế tiền triều, từng là Hoàng hậu rồi thành phế hậu bị giáng làm công chúa triều Trần. Bởi cuộc hôn nhân của Lê Tần với Lý Chiêu Hoàng đặc biệt như vậy nên hậu thế cũng có người dệt nên áng ngôn tình như Lê Tần yêu thầm Nữ đế đã nhiều năm hay là đặt ra giả thuyết có lẽ ở tuổi tứ tuần Lê Tần goá vợ nên vua se duyên với Chiêu Hoàng. Song cá nhân người viết thì không cho là như vậy. Nhớ rằng, năm 1258 Thái sư Trần Thủ Độ còn tại thế, hẳn nhiên ông ấy không bao giờ để cho người từng là Nữ đế Lý triều có cơ hội tiếp xúc với người khác chứ đừng nói tới quan lại hay trọng thần triều đình. Và mối hôn sự do Trần Thái Tông ban để có thể diễn ra thì chắc chắn đã có sự đồng thuận của Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu (mẹ của Lý Chiêu Hoàng). Ở thời điểm đó, có lẽ Thái sư nhận định mối hôn sự này không gây ra rủi ro gì cho cơ đồ của họ Trần. Chiêu Thánh công chúa tái giá là có cơ hội rời khỏi hậu cung thoát khỏi cảnh cô độc suốt hơn 20 năm và được sống tự do bên ngoài. Công chúa lấy chồng đương nhiên sẽ là chính thất, thế nên nếu Lê Tần đã có vợ con cũng không ảnh hưởng gì tới vị thế đương gia chủ mẫu của công chúa (giống như Trần Liễu khi kết hôn với Thuận Thiên công chúa đã tự thu xếp chuyện nhà để nguyên phối Trần Thị Nguyệt xuống làm thiếp thất). Lê Tần không phải người họ Trần, nhưng khi kết hôn với công chúa thì thành phò mã, trở thành người trong Hoàng thất. Với địa vị Phò mã tước Bảo Văn hầu, đảm nhận chức Ngự sử đại phu Lê Phụ Trần có đủ chính danh lẫn tư cách dẫn đầu phái đoàn Đại Việt sang sứ nhà Nguyên. Cũng lại có người đưa ra suy luận biết đâu chuyện ban hôn đó lại mở ra một lối khác cho mối duyên tình dang dở của nhà vua khi mà ngay sau khi ban hôn, Trần Thái Tông nhường ngôi cho con lui về làm Thái thượng hoàng đương lúc còn trẻ (mới chỉ 40 tuổi). Sau khi nhường ngôi, Thượng hoàng thường ở phủ Thiên Trường (Nam Định) hoặc am Thái Vi tại hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), khi có việc mới trở về kinh sư. Đúng hay sai chỉ người trong cuộc mới rõ, nhưng dù là giả thuyết nào thì ta cũng thấy rõ Lê Tần không chỉ phò vua trị quốc mà còn giúp vua san sẻ cả những mối bận tâm, những nỗi niềm riêng khó lòng bày tỏ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đại Việt sử ký toàn thư chép <i>“công chúa Chiêu Thánh ở với Lê Phụ Trần hơn 20 năm sinh được hai người con là Thượng vị hầu Lê Tông và Ứng Thuỵ công chúa Lê Ngọc Khuê.”</i> Trước đó toàn thư cũng có đoạn “<i>Năm Tân Sửu (1241) hoàng tử thứ ba là Quang Khải sinh, là em cùng mẹ với thái tử Hoảng, Quốc Khang là anh trưởng, sau đều phong Đại vương; thứ nhất Nhật Vĩnh, Ích Tắc, Chiêu Văn đều phong vương; rồi các con thứ nữa thì phong Thượng vị hầu. Con trưởng của các vương thì phong vương, các con thứ thì phong Thượng vị hầu, lấy làm chế độ vĩnh viễn</i>”. Ấy vậy mà con trai của Lê Phụ Trần (chỉ mang tước hầu) lại được phong là Thượng vị hầu, con gái được phong Ứng Thuỵ công chúa, tương đương với tước dành cho con của vua và vương. Điều này cho thấy hẳn là còn nhiều điều ẩn giấu đằng sau những dòng sử. Người viết mạo muội suy đoán rằng, rất có thể là Thượng hoàng Trần Thái Tông đã nhận hai con của Lê Tần và Chiêu Thánh công chúa làm nghĩa tử, nghĩa nữ nên mới có tước phong như vậy. Sách không chép rõ nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đồng thuận Lê Tông sau này được ban quốc tính, chính là Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng – vị tướng quân nhà Trần nổi tiếng với câu nói “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” đã anh dũng hy sinh khi còn trẻ trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2 (năm 1285). Trần Bình Trọng cũng chính là ông ngoại của vua Trần Minh Tông sau này.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </i></b><b><i>Võ tướng thao lược, thiếu sư toàn tài</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Lê Phụ Trần là trọng thần dưới 3 triều vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông, thế nhưng những ghi chép về ông trong chính sử quả thật rất ít ỏi. Từ sau sự kiện kết hôn với Lý Chiêu Hoàng, chỉ có 2 lần Lê Tần được nhắc tới:</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Tháng 6 năm 1259, vua Trần Thánh Tông giao cho Lê Phụ Trần làm Thủy quân đại tướng quân.”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>“Đến tháng 12 năm 1274, vua Trần Thánh Tông phong ông làm Thiếu sư, kiêm Sừ cung giáo thụ tức là thầy dạy cho Hoàng thái tử Trần Khâm (vua Trần Nhân Tông).”</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử gia Ngô Sĩ Liên dù từng bình phẩm rất khắt khe về sự việc ban hôn nhưng cũng đánh giá rất cao tài năng&nbsp; của ông: <i>"Lê Phụ Trần… dũng lược đứng đầu ba quân, một mình một ngựa xông pha trong lúc gian nguy, mà tài văn học của ông đủ để dạy bảo thái tử".</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau khi Chiêu Thánh công chúa Lý Thiên Hinh qua đời năm 1278, không còn ghi chép nào về Lê Tần nữa. Đó có lẽ cũng là sự thiệt thòi của một vị danh tướng công thần như ông khi gánh vác vai trò rất đặc biệt và khá nhạy cảm trong lịch sử. Song cứ nhìn vào sự nghiệp 3 đời quân vương ông phò tá, nhìn vào người học trò của ông Trần Nhân Tông 2 lần đánh thắng quân Nguyên Mông rồi xuất gia trở thành Phật hoàng sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, nhìn vào người con trai danh tướng sa trường quyết tử vì Tổ quốc Trần Bình Trọng, cũng đủ để hậu thế chúng ta thấy được Bảo Văn hầu Lê Phụ Trần đã sống và cống hiến trọn vẹn một đời cho triều đại Đông A hào hùng, cho sự nghiệp bảo vệ dân tộc để Đại Việt quốc thái dân an.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-9-an-toan-dam-thai-hau-vi-dau-nen-noi"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 9 An Toàn Đàm Thái Hậu: Vì Đâu Nên Nỗi?</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><br></p></div><div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Từ thường dân, một bước trở thành nguyên phối của cháu trai đương kim Hoàng hậu, ở độ tuổi trăng tròn Trần Thị Nguyệt đã là phu nhân danh giá, sớm đảm đương trọng trách của chủ mẫu tương lai. Những tưởng người đầu tiên được Trần Liễu cưới hỏi đàng hoàng rước về làm vợ sẽ được cả đời êm ấm ở vị trí chính thất, song giữa thời buổi đất nước còn loạn lạc, bánh xe thời cuộc liên tục xoay vần thì bất cứ gia đình nào cũng ít nhiều trải qua sóng gió.<br><i>"Phúc đức tại mẫu"</i>, người mẹ hiền để lại phúc phần cho con cháu. Thiện Đạo Quốc mẫu đã sống một cuộc đời thật giống như tên huý Trần Thị Nguyệt của bà, bà chính là vầng trăng sáng giữa màn đêm, mang sự dịu dàng vỗ về an ủi cho chồng, mang ánh sáng trong trẻo thuần khiết, không chói loà mà kiên định soi tỏ cả khi bầu trời quang đãng hay lúc mây mù che phủ để nuôi dưỡng thân tâm, trao truyền đức hạnh cho con cháu, cho đời sau kế thừa.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/4f999d3e373e53ab89ad4a9c5afe86102389bcad2de77e31b025270ea5d51e21.jpg"alt="7.Thien Dao quoc mau.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>(Nguồn ảnh: Internet)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>1.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>PHU NHÂN HÀO MÔN</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Đại Việt những năm 1220, họ Trần là danh gia vọng tộc ở Hải Ấp. Xuất phát từ gia đình hào trưởng địa phương phát đạt nhờ nghề chài lưới, sau chục năm bước lên vũ đài chính trị cùng tài năng của người tộc trưởng gian hùng Trần Tự Khánh, Trần gia dần trở thành danh môn bậc nhất lúc bấy giờ. Bởi thế mà ngày thiếu nữ Trần Thị Nguyệt (Thiện Đạo Quốc mẫu sau này) thành hôn với Quan nội hầu Trần Liễu, trưởng tử của Liệu hầu Trần Thừa, cháu trai Thái uý Trần Tự Khánh, hẳn bao người tấm tắc cô gái này quả là có phúc. Tới nay, không có nhiều tư liệu sử sách ghi chép thân thế của bà, song người viết đồ rằng để lọt vào mắt xanh của thế gia như vậy, chắc chắn người phụ nữ ấy cũng phải có xuất thân tương xứng, cũng là nữ nhân có sắc có tài, có đủ công dung ngôn hạnh. </p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Từ thường dân, một bước trở thành nguyên phối của cháu trai đương kim Hoàng hậu, ở độ tuổi trăng tròn Trần Thị Nguyệt đã là phu nhân danh giá, sớm đảm đương trọng trách của chủ mẫu tương lai. Những tưởng người đầu tiên được Trần Liễu cưới hỏi đàng hoàng rước về làm vợ sẽ được cả đời êm ấm ở vị trí chính thất, song giữa thời buổi đất nước còn loạn lạc, bánh xe thời cuộc liên tục xoay vần thì bất cứ gia đình nào cũng ít nhiều trải qua sóng gió.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>2.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>CHÍNH THẤT TRỞ THÀNH THIẾP THẤT</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có lẽ cuộc đời của Trần Thị Nguyệt sẽ bằng phẳng hơn nhiều nếu không xảy ra sự việc người chú chồng đứng đầu họ Trần bấy giờ- Thái uý Trần Tự Khánh đột ngột qua đời vào năm 1223. Sau khi Trần Tự Khánh mất, quyền bính trong triều được giao cho người anh trai Trần Thừa kế tục chức vị Thái uý phụ chính, người em họ Trần Thủ Độ được giao chức Điện tiền chỉ huy sứ nắm giữ quân đội. Bằng sự khôn khéo và bản lĩnh chính trị, Trần Thừa đã nhanh chóng nắn dòng chỉnh hướng đưa vị trí trưởng tộc về lại nhánh của mình. Có nguồn sử liệu ghi rằng trước đó, con của Trần Tự Khánh là Hiển Đạo vương Trần Hải đã từng dâng lễ vật cầu hôn Thuận Thiên công chúa, trưởng nữ của vua Lý Huệ Tông. Thế nhưng sau khi Trần Tự Khánh qua đời, người được ban hôn với Thuận Thiên là Trần Liễu dù lúc này Trần Liễu đã có nguyên phối là Trần Thị Nguyệt. Bởi Thuận Thiên là công chúa thì đương nhiên ở vị trí chính thất, nên Trần Liễu phải tự thu xếp chuyện trong nhà đư Trần Thị Nguyệt xuống thành thiếp. Làm dâu hào môn thời phong kiến, hẳn Trần Thị Nguyệt hiểu rõ việc không thể mong cầu sẽ là nữ nhân duy nhất của chồng. Như các nam nhân danh môn khác, Trần Liễu cũng nạp thiếp. Song có lẽ người phụ nữ ấy chẳng thể ngờ lại có ngày mình rơi vào tình cảnh đang là chính thất lại trở thành thiếp thất. Từ vợ cả nay thành vợ lẽ, từ chủ mẫu rớt xuống thị thiếp, Trần Thị Nguyệt hẳn đã phải chịu nhiều ấm ức, tủi hổ trong lòng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau lễ thành hôn với Trưởng công chúa Thuận Thiên, Trần Liễu trở thành phò mã, con rể vua và được sắc phong làm Phụng Càn vương.&nbsp; Công chúa về vương phủ khi chưa tròn mười tuổi, còn non nớt, dù chẳng được làm vương phi song những năm Thuận Thiên chưa thành niên, mọi chuyện đối nội trong nhà hẳn là đều do Trần Thị Nguyệt chăm lo quán xuyến. Các tư liệu lịch sử ghi nhận rằng cuộc hôn nhân của Trần Liễu và Thuận Thiên là phu thê hoà ái, tình cảm đậm sâu. Điều này cho thấy Thuận Thiên thật sự được chồng và nhà chồng yêu thương. Từ đó ta cũng thấy được Trần Thị Nguyệt là người vợ hiền hậu, bao dung, khéo đối nhân xử thế, biết hy sinh lợi ích của riêng mình để cho gia đình êm ấm. Nếu như Thuận Thiên sinh hạ cho Trần Liễu hai người con trai là đích tử Trần Doãn (Vũ Thành vương) và Trần Quốc Khang (Tĩnh Quốc đại vương, chào đời trên danh nghĩa là con trưởng vua Trần Thái Tông sau sự biến năm 1237), thì Trần Thị Nguyệt cũng sinh ra những người con thông minh xuất chúng, tài năng đức độ cho Trần Liễu. Theo các tư liệu phả hệ Trần tộc ghi chép lại thì bà được cho là mẹ sinh của trưởng tử Trần Tung (Hưng Ninh vương, Tuệ Trung thượng sĩ), Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều (hoàng hậu của vua Trần Thánh Tông, mẹ của Phật hoàng Trần Nhân Tông).</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>3.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>NGƯỜI VỢ TÀO KHANG</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mười mấy năm về làm vợ Trần Liễu, Trần Thị Nguyệt chứng kiến toàn bộ thăng trầm cuộc đời chồng. Bà gắn bó với ông từ thưở ông mới chỉ là thiếu gia nhành thứ tới vị trí đích tôn họ Trần; từ Quan nội hầu, cháu trai Hoàng hậu tới Phò mã, Phụng Càn vương con rể vua Lý Huệ Tông; từ Khâm Minh vương, huynh trưởng của vua khai mở triều Trần- Trần Thái Tông (năm 1225) được thăng tước Hiển hoàng Thái uý phụ chính (sau khi Thượng hoàng Trần Thừa qua đời năm 1234) rồi vì mắc tội mà bị giáng xuống làm Hoài vương (năm1236). Trong những năm tháng ấy, bà là người phụ nữ âm thầm đứng sau lưng chồng, đứng sau vương phi Thuận Thiên, âm thầm đồng hành, chăm sóc, sẻ chia gian khó, chung tay quán xuyến chuyện lớn nhỏ, những mong cho chồng vạn sự hanh thông, cho gia đình được bình an hoà hảo.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Nhưng có lẽ Trần Thị Nguyệt càng mong mỏi yên bình bao nhiêu thì ông trời càng muốn trao thêm thử thách bấy nhiêu. Dù bà đã hy sinh hết mình, đã nỗ lực hết sức, đã cam chịu thiệt thòi, an phận thứ thiếp thì sóng gió vẫn chưa dừng lại với gia đình Hoài vương. Năm 1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua đã lâu không có con, Trần Thủ Độ lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên công chúa, chính thất của Trần Liễu đồng thời là chị gái của Chiêu Thánh, đang mang thai 3 tháng làm Hoàng hậu để lấy đứa trẻ mà nhờ cậy về sau. Nhân lúc triều đình cử Trần Liễu đi xa, Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung đưa Thuận Thiên công chúa vào cung. Bất lực trước tình cảnh éo le này, vua Trần Thái Tông bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử định đi tu. Trần Liễu trở về nhận hung tin, ôm hận nỗi nhục bị cướp vợ cướp con, liền họp quân nổi loạn ở sông Cái. Một khi đã làm phản nếu thất bại sẽ là tội chết, hại cả gia đình bị xử tru di. Không ai hay tâm tư Trần Liễu lúc đó liệu có chỉ đơn thuần là bất bình mà làm phản, hay còn có cả tham vọng nắn lại dòng trưởng thứ giống như cha mình từng làm được. Nhưng với một người phụ nữ có chồng làm phản, chính thất của chồng bị đưa vào cung, là mẹ của mấy đứa con thơ, là chỗ dựa của bao nhiêu con người trong vương phủ, Trần Thị Nguyệt phải đứng trước tình cảnh ngặt nghèo, vô cùng hoang mang, lo sợ bất an. Trong 2 tuần Trần Liễu làm loạn, có lẽ bà ấy đã sống trong sợ hãi, ăn không thấy ngon ngủ chẳng yên giấc mà vẫn phải giữ vững tay chèo lái gia đình.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Dù Trần Liễu có sức trẻ, có tài năng, có dã tâm, có quân đội thì vẫn không phải là đối thủ của Thái sư Trần Thủ Độ. Với bản lĩnh gian hùng và cá tính bất chấp tất cả để đạt mục đích của mình, Trần Thủ Độ nhanh chóng rước được vua Thái Tông trở về và thẳng tay tiêu diệt đội quân làm phản. Khi biết mình thất thế, Trần Liễu đành đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Thái Tông xin tha tội. Vua Trần Thái Tông đã lấy thân mình ra che cho anh và can ngăn ông chú họ, nhờ đó Trần Liễu mới thoát chết<a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Li%E1%BB%85u#cite_note-PCV-8"></a>. Hoài vương được tha tội chết nhưng toàn bộ quân lính theo ông nổi loạn đều bị xử tử. Kết cục sự biến năm 1237, Vua Trần Thái Tông buộc phải phế lập, vương phi Thuận Thiên trở thành Hoàng hậu, Trần Liễu để giữ mạng sống phải an phận làm An Sinh vương, còn Chiêu Thánh hoàng hậu bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau sự biến, do Thuận Thiên không còn là vợ Trần Liễu nên Trần Thị Nguyệt trở lại làm chính thất như vị trí trước đây của bà. Thế nhưng chồng bà đã không còn là Trần Liễu của trước đây, gia đình bà cũng không còn được sum vầy sớm tối. Chính sử không ghi chép rõ nhưng người viết đồng thuận với nhận định của nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sau sự việc trên, các con của Trần Liễu bị tách khỏi cha mình và trở thành con tin ở kinh thành trong khi gia đình Trần Liễu chuyển tới đất An Sinh (Quảng Ninh ngày nay). Điều đó cũng có nghĩa rằng Trần Thị Nguyệt phải&nbsp; lìa xa các con để theo chồng rời đi. Trần Liễu phẫn uất vì mối hận bị cướp vợ cướp con, bất lực vì mất hết quân đội phải chứng kiến quân lính của mình bị tàn sát, chịu đả kích khi con cái bị triều đình giữ làm con tin ở Kinh thành mà ôm hậm hực, bất mãn, sa sút chán nản tới tận lúc qua đời. Những ngày tháng đó chắc hẳn không khí trong phủ An Sinh vương chẳng hề nhẹ nhàng, cũng chẳng dễ sống, nhưng người vợ tào khang Trần Thị Nguyệt vẫn một lòng một dạ ở bên ông chăm sóc hầu hạ, đồng hành hỗ trợ ông gánh vác trách nhiệm làm chủ vương phủ.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử chép, năm Mậu Thân (1248), Thuận Thiên Hoàng hậu qua đời khi mới 33 tuổi. Ba năm sau, tháng giêng năm 1251, xảy ra sự việc Trần Quốc Tuấn - người con trai tài năng, niềm tự hào của ông bà lại đem lòng yêu Thiên Thành trưởng công chúa (được nhận định là con gái út của Thái Tổ Trần Thừa, tức em cùng cha khác mẹ của Trần Liễu) rồi hồ đồ làm ra sự việc tày đình đang đêm lẻn vào khuê phòng công chúa cướp dâu ngay trong phủ Nhân Đạo vương (bố chồng tương lai của công chúa). Lần ấy nếu không nhờ Thuỵ Bà công chúa cầu cứu vua Trần Thái Tông kịp thời giải vây và đứng ra dàn xếp thì rất có thể Quốc Tuấn mất mạng ở phủ Nhân Đạo vương (thời đó Luật pháp cho phép người chồng được tự quyền giết chết tên gian phu, kẻ ngoại tình khi bắt tại trận). Thu xếp xong sự việc gây ra nỗi hổ thẹn này thì tiền đồ của gia đình An Sinh vương càng sa sút, những đứa con của ông bà sau này đã rất chật vật, nỗ lực để chứng minh tài năng của mình, để có được lòng tin và sự trọng dụng của đế vương. Tới tháng 4 năm đó, An Sinh vương Trần Liễu qua đời ở&nbsp; tuổi 41, được truy tặng thuỵ hiệu là Khâm Minh Đại vương. Một số tài liệu cho rằng sau khi mãn tang chồng thì An Sinh vương phi đã xuất gia với pháp hiệu&nbsp;Diệu Hương. Tuy rằng cuộc đời Trần Liễu nhiều sóng gió, lắm thăng trầm mà đa phần là điều bất như ý, từng mất chính thất, mất con trai, mất quyền lực, mất tiền đồ nhưng có thể nói ông ấy đã có được một hồng nhan tri kỷ, một người vợ tào khang ở bên ông trọn nghĩa phu thê, một đời son sắt. </p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>4.&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp;&nbsp; </b><b>THIỆN ĐẠO QUỐC MẪU, PHÚC ĐỨC TẠI MẪU</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Người viết chưa tìm được nguồn tư liệu về thời điểm Trần Thị Nguyệt được phong làm Thiện Đạo Quốc mẫu, cũng không thấy tài liệu nào chép về năm mất của bà. Song cá nhân mình đồ rằng, với tình hình lúc đó thì có lẽ phải sau này, khi các con của bà thể hiện được tài năng, chấn hưng vị thế gia tộc, khi Trần Quốc Tuấn lập đại công trong các lần kháng chiến chống Nguyên Mông và được phong tước Tiết chế Quốc công Hưng Đạo Đại vương thì bà được truy phong là Thiện Đạo Quốc mẫu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc đời của Trần Thị Nguyệt cũng thăng trầm sóng gió cùng với biến động cuộc đời chồng bà, lên xuống theo bước chân công danh sự nghiệp của các con bà. Như mọi người phụ nữ Việt, bà mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp kế thừa bao đời của người vợ, người mẹ dân tộc Việt: chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh, đầy lòng bao dung, một lòng một dạ yêu chồng thương con, vì chồng vì con mà gánh gồng đảm đương vượt mọi khổ ải. Cứ nhìn vào những người con nổi danh của bà về sau: một thiền sự đạo hạnh là thầy của Phật hoàng - Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung, một nhà quân sự thiên tài được hậu thế suy tôn Đức Thánh Trần- Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, một mẫu nghi thiên hạ hiền đức sinh ra Phật hoàng- Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều, ta có thể thấy họ đã được thai nghén, nuôi dưỡng, chăm nom và kế thừa những phẩm chất tốt đẹp từ một người mẹ đức độ, thiện lương như thế nào. <i>"Phúc đức tại mẫu"</i>, người mẹ hiền để lại phúc phần cho con cháu. Thiện Đạo Quốc mẫu đã sống một cuộc đời thật giống như tên huý Trần Thị Nguyệt của bà, bà chính là vầng trăng sáng giữa màn đêm, mang sự dịu dàng vỗ về an ủi cho chồng, mang ánh sáng trong trẻo thuần khiết, không chói loà mà kiên định soi tỏ cả khi bầu trời quang đãng hay lúc mây mù che phủ để nuôi dưỡng thân tâm, trao truyền đức hạnh cho con cháu, cho đời sau kế thừa.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-8-bao-van-hau-le-phu-tran-lam-ban-voi-vua-nhu-nguoi-tri-k%E1%BB%B7"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 8 Bảo Văn Hầu Lê Phụ Trần: Làm Bạn Với Vua Như Người Tri Kỷ</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Khâm Minh Đại vương Trần Liễu là trưởng tử của Thái Tổ Trần Thừa, con rể cả của vua Lý Huệ Tông, là huynh trưởng của vua Thái Tông Trần Cảnh và cũng là vị hôn phu đầu tiên của Thuận Thiên hoàng hậu Lý Oánh. Ông là phụ thân của Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung, Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu (hoàng hậu của vua Trần Thánh Tông, mẹ của vua Trần Nhân Tông) và cũng là cha ruột của Tĩnh Quốc Đại vương Trần Quốc Khang (người được vua Trần Thái Tông nhận là Hoàng trưởng tử). Là người đứng đầu nhánh trưởng của họ Trần với thân thế hiển hách nhưng định mệnh lại chẳng ban cho Trần Liễu một lá bài đẹp.</p></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/4144811915512136915a0f7d741c61ec011f3c6499fddcbb60f6f2964fc0c8a1.jpg"alt="6. Kham Minh ?V Tran Lieu.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trần Liễu sinh năm 1211, ở thời điểm này người cô ruột Trần Thị Dung đã trở thành Nguyên phi của vua Lý Huệ Tông, Trần gia dưới sự lãnh đạo của người chú Trần Tự Khánh đang là thế lực quân sự ngày càng lớn mạnh trên chính trường. Sử sách không ghi chép rõ nhưng khả năng cao Trần Tự Khánh là đích tử của Trần Lý, nên mặc dù Trần Thừa cha của Trần Liễu là con cả nhưng vẫn phải đứng sau người chú này. Trần Liễu lớn lên trong chiến loạn, tuổi thơ của ông là năm tháng chứng kiến họ Trần trải bao thăng trầm, chật vật tạo dựng cơ đồ giữa cuộc tranh hùng thời loạn, khi vinh hiển, lúc thất thế, người đứng đầu Trần Tự Khánh khi được coi là công thần lúc bị gọi là kẻ phản trắc. Cho tới năm 1216, trước sự tàn nhẫn của Đàm Thái hậu muốn ép chết Trần Thị Dung và đứa con trong bụng, vua Lý Huệ Tông đã đưa vợ chạy trốn khỏi hoàng cung, lẻn đến chỗ đóng quân của Trần Tự Khánh ở bãi Cửu Liên, lựa chọn dựa vào họ Trần. Tháng chạp cùng năm đó, Lý Huệ Tông chính thức sách lập Thuận Trinh Phu nhân Trần thị làm Hoàng hậu và phong tước cho anh em họ Trần nắm toàn bộ quyền bính trong triều. Lúc này Trần Tự Khánh được phong làm Thái uý, con trưởng của Tự Khánh là Trần Hải được phong tước Hiển Đạo vương, Trần Thừa được phong tước Liệt hầu làm Nội thi phán Thủ và Trần Liễu được tước Quan nội hầu.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau khi có được chính danh “phụng mệnh thiên tử”, Trần Tự Khánh và họ Trần tích cực đánh bắc dẹp đông, diệt trừ các thế lực cát cứ chống triều đình. Tháng 12 năm 1223, Trần Tự Khánh đột ngột qua đời, quyền bính trong triều được giao cho người anh trai Trần Thừa kế tục chức vị Thái uý phụ chính. Đây cũng là bước ngoặt lớn trong cuộc đời Trần Liễu. Bằng sự khôn khéo và bản lĩnh chính trị của mình, Trần Thừa đã nắn dòng chỉnh hướng đưa vị trí trưởng tộc về lại nhánh con cả. Có nguồn sử liệu ghi rằng vào tháng 11 năm 1222, vua Lý Huệ Tông cùng Đàm thái hậu ngự ở điện Thiên An, con của Trần Tự Khánh là Hiển Đạo vương Trần Hải dâng nạp lễ vật cầu hôn Thuận Thiên công chúa. Thế nhưng sau khi Trần Tự Khánh qua đời, người được ban hôn với Thuận Thiên là Trần Liễu. Không rõ cuộc hôn nhân này diễn ra vào năm nào, chỉ biết rằng trước khi lấy Thuận Thiên thì Trần Liễu đã có nguyên phối là Trần Thị Nguyệt (tức Thiện Đạo quốc mẫu), nhưng vì là công chúa nên Thuận Thiên phải là chính thất, Thiện Đạo trở thành thiếp thất. Người viết mạo muội cho rằng nhờ kết hôn với trưởng công chúa mà Trần Liễu được thụ phong tước vương, vị hiệu là Phụng Càn Vương. “Càn” là quẻ đứng đầu Bát quái trong kinh dịch, đại diện cho Trời, cho vua, sự tôn quý và người đứng đầu, tên hiệu Phụng Càn Vương cho thấy vị thế cao của Trần Liễu và rất có thể Trần Liễu là người đầu tiên Trần gia lựa chọn cho vai trò khai mở triều đại. Điều này là hợp tình hợp lý, khi đó Trần Liễu là con trưởng, đã ở tuổi thành niên, từng tham gia chính sự cùng cha chú và gia tộc, lại là con rể trưởng của Hoàng đế đương triều.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1224, vua Lý Huệ Tông bệnh càng nặng, đến tháng 10, dưới sức ép của Trần Thủ Độ và họ Trần, vua bị buộc phải nhường ngôi rồi làm Thái thượng hoàng và đi tu ở chùa Bát Tháp, lấy pháp danh là Huệ Quang Đại sư. Thế nhưng trái với ý đồ của họ Trần, vua Huệ Tông đã “đảo lộn Càn Khôn” và chính thức nhường ngôi cho con gái út là công chúa Chiêu Thánh mới lên 7 tuổi, tức Lý Chiêu Hoàng, thay vì chọn con rể trưởng kế nghiệp. Ngay lập tức họ Trần thay đổi kế sách. không lâu sau, Trần Thủ Độ sắp đặt để Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần Cảnh, con trai thứ của Trần Thừa, tiếp đó là màn Nữ đế nhường ngôi cho chồng. Trần Cảnh lên ngôi tức vua Trần Thái Tông. Vậy là họ Trần đã trở thành Hoàng tộc nhưng định mệnh đã chọn em trai của Trần Liễu là người ngồi lên ngai vàng đổi thay triều đại. Năm 1226, sau khi Trần Thủ Độ bức tử Thượng hoàng Lý Huệ Tông, cha vua là Trần Thừa được tôn làm Thượng hoàng, nhiếp chính cho con trai. Năm 1228, Trần Liễu được vua Thái Tông phong làm Thái uý khi chỉ mới 17 tuổi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sau khi Thượng hoàng Trần Thừa mất năm 1234, vua Trần Thái Tông có ý cất nhắc, dựa vào người anh trai, liền phong cho Trần Liễu tước Hiển Hoàng và vị trí Thái uý phụ chính bên cạnh người chú họ là Thái sư Trần Thủ Độ. Thế nhưng Trần Liễu và Trần Thủ Độ có vẻ không hoà hợp mà trở thành 2 thế lực đối đầu. Vào năm 1236 xảy ra sự biến cung Lệ Thiên, Trần Liễu khi ấy làm chức Tri sự của cung Thánh Từ bị kết án cưỡng gian cung nhân cũ Lý triều rồi bị giáng xuống làm Hoài vương, dần mất quyền lực trên chính trường. Từ đó, Thái sư Trần Thủ Độ trở thành trụ cột quyền uy nhất trong triều. Đó cũng là lúc cuộc đời của huynh đệ Trần Liễu, Trần Cảnh bắt đầu xoay vần trong bàn tay ông chú.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua đã lâu không có con, Trần Thủ Độ lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên công chúa, vợ của Trần Liễu đồng thời là chị gái của Chiêu Thánh, đang mang thai 3 tháng làm hoàng hậu để lấy đứa trẻ mà nhờ cậy về sau. Nhân lúc triều đình cử Trần Liễu đi xa, Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị Dung đưa Thuận Thiên công chúa vào cung. Bất lực trước tình cảnh éo le này, vua Trần Thái Tông bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử xin tu theo thiền sư Đạo Viên. Trần Liễu trở về nhận hung tin, ôm hận nỗi nhục bị cướp vợ cướp con. Nhân lúc ngai vàng bỏ trống, Trần Thủ Độ rời kinh đi đón vua, Trần Liễu liền họp quân nổi loạn ở sông Cái. Không ai rõ tâm tư Trần Liễu lúc đó liệu chỉ đơn thuần là bất bình mà làm phản, hay ở trong đó còn có cả tham vọng nắn lại dòng trưởng thứ giống như cha mình từng làm được. Người viết đồ rằng có thể lắm, đối với họ Trần thì nếu Trần Liễu thành công cũng không hại gì, Trần Liễu hay Trần Cảnh làm vua, Thuận Thiên hay Chiêu Thánh làm hậu thì quyền lợi của họ Trần hay tính chính danh “con rể nối ngôi vua tiền triều” đều không thay đổi. Khi đó, Thuận Thiên được chọn làm Hoàng hậu, phu thê họ đã có đích tử Trần Doãn, lại ở vai chị vai anh của Chiêu Thánh, Trần Cảnh, vậy thì phu quân của nàng là Trần Liễu trở thành Hoàng đế cũng thấu tình đạt lý lắm chứ. Thế nhưng người Trần Thủ Độ chọn làm hoàng hậu là Thuận Thiên, còn quân vương ông ta một lòng phó tá lại là Trần Cảnh. Với bản lĩnh gian hùng và cá tính bất chấp luân thường miễn đạt mục đích của mình, Trần Thủ Độ nhanh chóng rước được vua Thái Tông trở về và thẳng tay tiêu diệt đội quân làm phản. Nổi loạn được 2 tuần, Trần Liễu biết mình thất thế, phải đóng giả làm người đánh cá trốn lên thuyền vua Thái Tông xin tha tội. Khi ấy Trần Thủ Độ biết được, cầm gươm đến định giết Trần Liễu nhưng Trần Cảnh lấy thân mình che cho anh và can ngăn, nhờ đó Trần Liễu mới thoát chết<a href="https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_Li%E1%BB%85u#cite_note-PCV-8"></a>. </p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vua Thái Tông tha tội cho Trần Liễu nhưng toàn bộ quân lính theo ông nổi loạn đều bị giết, Trần Liễu mất sạch đội quân của mình. Để an ủi và bù đắp, Trần Thái Tông lấy các đất An Phụ, An Dưỡng, An Sinh, An Hưng và An Bang cho ông làm ấp thang mộc và sửa phong hiệu là&nbsp;An Sinh vương. “An Sinh vương” có lẽ đã hàm ý nhắc nhở&nbsp; Trần Liễu rằng an phận thì được sống. Các sử gia cho rằng, mặc dù thua cuộc và tự xin hàng lại có Linh Từ quốc mẫu nhiều lần làm cầu nối hoà giải ân oán giữa hai nhánh, song Trần Liễu vẫn rất hậm hực và bất mãn với em trai mình, đến tận khi chết vẫn giữ mối thù này mà không buông bỏ được. Khi nghe thầy xem tướng nói con trai thứ của ông là Trần Quốc Tuấn có tướng đại quý, Trần Liễu đã dồn rất nhiều tâm huyết &nbsp;tìm người đào tạo Trần Quốc Tuấn thật giỏi giang hòng mai này thay cha rửa mối hận năm nào. Về chuyện này hậu thế khó lòng phân định, chỉ biết rằng từ đó cái tên Trần Liễu không còn xuất hiện trên chính trường, ông thật sự phải an phận ngậm ngùi làm vương gia không quyền lực cho tới cuối đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử chép, năm Mậu Thân (1248), Thuận Thiên Hoàng hậu qua đời khi mới 33 tuổi. 3 năm sau đó, vào năm 1251, tháng 4 âm lịch, An Sinh vương Trần Liễu qua đời ở&nbsp; tuổi 41, sau được truy tặng thuỵ hiệu là Khâm Minh Đại vương. Có người cho rằng Trần Liễu thọ ngắn là bởi ôm bất mãn tích tụ cả đời. Có người nghĩ ông buồn bực thất vọng sau sự việc người con trai là niềm tự hào của ông, Trần Quốc Tuấn lại đem lòng yêu Thiên Thành trưởng công chúa (được nhận định là con gái út của Thái Tổ Trần Thừa, tức em gái cùng cha khác mẹ của Trần Liễu) rồi hồ đồ làm ra sự việc tày đình cướp dâu ngay trong phủ Nhân Đạo vương (bố chồng tương lai của công chúa). Lần đó nếu không nhờ Thuỵ Bà công chúa cầu cứu vua Trần Thái Tông kịp thời giải vây và đứng ra dàn xếp thì sau này chẳng có Hưng Đạo Đại vương. Nỗi khổ tâm thật sự của Trần Liễu là gì, có lẽ chỉ mình ông biết. Vậy là 2 người con trưởng trong bi kịch 4 người một nhà đã rời xa dương thế ở còn tuổi đời còn trẻ, trước khi cuộc chiến Đại Việt chống quân Nguyên Mông diễn ra. Có lẽ là họ đã hoàn tất vai trò lịch sử của mình trong thời đại Đông A. Biết đâu ở một nơi nào đó, ở một thế giới khác, Thuận Thiên và Trần Liễu lại có cơ duyên đoàn tụ cùng nhau sau bể dâu một đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuy cuộc đời nhiều sóng gió, lắm thăng trầm mà đa phần là điều bất như ý, song Khâm Minh Đại vương Trần Liễu hoàn toàn có thể tự hào về hậu duệ của mình. Con trai, con gái, cháu trai, cháu gái của ông sau này đều trở thành Đại vương, Hoàng hậu, Vương phi, thiền sư được hậu thế ca tụng, ghi nhớ công ơn đời đời.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-7-thien-dao-quoc-mau-tran-thi-nguyet-the-gia-chu-mau"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 7 Thiện Đạo Quốc Mẫu Trần Thị Nguyệt: Thế Gia Chủ Mẫu</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>
Ảnh đại diện
Phượng Tía Nhà phân tích
Phượng Tía Nhà phân tích
<div class="block-wrapper" type="quote"><blockquote style="text-align: left;"><p class="quote-body">Có thể nói muôn vị nhân gian, ngọt ngào, mặn chát, đắng ngắt, cay nồng, thơm bùi, ân oán tình thù, tình yêu và gia tộc, chiến tranh và hoà bình, danh lợi phù hoa và thong dong tự tại, cuộc đời của Thái Tông Trần Cảnh đều nếm trải. Trần Thái Tông được ca ngợi là ông vua thiền sư xuất sắc của Đại Việt đã có công kiến tạo nên thế hệ kiệt xuất tiếp theo của dòng máu Đông A anh hùng.</p><span class="quote-caption"></span></blockquote></div><div class="block-wrapper" type="image"><img src="/api/v1/media/d3b62ffe47f3d53a367787a618e0855a4c8113b9f9b4e773478240b734aa2113.jpg"alt="5. Thai Tong Tran Canh muon vi nhan gian 5718.jpg"style="max-width: 100%;"></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><i>(Nguồn ảnh: Comet Withhouse)</i></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>NGỌT… </b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Trong số những đứa trẻ Hoàng tộc họ Lý và Trần gia lúc bấy giờ, có lẽ Trần Cảnh là đứa trẻ may mắn nhất. Sinh ra trong gia tộc hào trưởng, không phải lớn lên trong thời buổi loạn lạc nhất như người anh cả Trần Liễu, lúc Trần Cảnh chào đời (tháng 7 năm 1218 âm lịch), họ Trần đã có vị thế vững chắc trong triều đình của vua Lý Huệ Tông. Khi người chú Trần Tự Khánh qua đời (năm 1223), cha của Cảnh là Trần Thừa trở thành người đứng đầu gia tộc, Trần Thừa cùng với Trần Thủ Độ nắm mọi quyền bính trong triều.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái nhỏ là Chiêu Thánh công chúa để xuất gia (năm 1224) đánh dấu bước ngoặt tuổi thơ của cậu bé 7 tuổi. Thay vì như toan tính của họ Trần đã sắp đặt để vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con rể trưởng Phụng Càn Vương Trần Liễu, lúc này 15 tuổi, là phò mã của trưởng công chúa Thuận Thiên, thì vua Huệ Tông lại đảo lộn Càn Khôn và nhường ngôi cho con gái út. Chiêu Thánh lên ngôi tức Nữ đế Lý Chiêu Hoàng, họ Trần nhanh chóng thay đổi kế sách bằng cách đưa một loạt nam nhi con cháu họ Trần vào cung để hầu hạ Nữ đế. Trong số đó, Trần Cảnh được Trần Thủ Độ tiến cử làm Chi hậu chính chi ứng cục hầu hạ kề cận Chiêu Hoàng. Trần Cảnh cùng tuổi với nữ đế, là anh em họ gần (Trần Cảnh là cháu gọi thái hậu Trần Thị Dung mẹ của Chiêu Hoàng là cô ruột) lại có bản tính hiền lành nên được Chiêu Hoàng quý mến, cùng chơi. Họ Trần đã lợi dụng điều này để dàn xếp hôn nhân giữa 2 đứa trẻ 7 tuổi Chiêu Hoàng và Trần Cảnh. Tới cuối năm 1225, họ Trần hoàn tất bước đi cuối cùng: Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng, Trần Cảnh trở thành vị vua đầu tiên khai mở triều Trần, tự xưng là Thiện Hoàng, sau đổi thành Văn Hoàng tức Trần Thái Tông. Trần Thái Tông lên ngôi tuổi còn thơ ấu (8 tuổi), sau khi Trần Thủ Độ bức tử nhạc phụ vua là Thượng hoàng Lý Huệ Tông, cha vua là Trần Thừa được tôn làm Thượng hoàng, nhiếp chính cho con trai, gia đình Trần Thừa đường đường chính chính trở thành chủ nhân mới của Hoàng cung.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Tuổi thơ của Trần Cảnh có thể nói là yên bình, may mắn kề cận Nữ đế, một bước lên mây trở thành tân Hoàng đế. Ngồi lên ngai vàng từ tuổi ấu thơ song Trần Thái Tông được cha nhiếp chính, có chú nhất mực trung thành, từng bước ổn định triều chính, có được lòng dân, xây nền vững chắc cho cơ nghiệp họ Trần. Tuy rằng Trần Cảnh kết hôn rất sớm, khi mới chỉ là đứa trẻ 7 tuổi, song ông và Chiêu Thánh hoàng hậu nhỏ là thanh mai trúc mã, lớn lên là phu thê hoà hảo. Có thể nói từ tuổi còn rất trẻ, Trần Thái Tông đã có mọi thứ trong tay, có ngai vàng được danh chính ngôn thuận từ vợ nhường ngôi, có cơ nghiệp vững vàng nhờ công sức dẹp loạn bình thiên hạ của Trần gia, có tình yêu ngọt ngào và cuộc hôn nhân hạnh phúc với Chiêu Thánh hoàng hậu. Thế nhưng những tháng ngày bình yên lại chẳng kéo dài mãi.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>MẶN…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Mặn là vị của nước mắt. Biến cố đau thương đầu tiên đến với Trần Cảnh là sự ra đi của người mẹ, Thái thượng hoàng hậu Lê Thị Thái mất năm 1230. Vậy là lúc 12 tuổi, Trần Cảnh cũng trải qua nỗi đau mất người thân như người vợ Chiêu Thánh của mình (Chiêu Thánh mất cha khi 8 tuổi). Năm 15 tuổi, Trần Cảnh và Chiêu Thánh lại chịu nỗi đau mất đi đứa con đầu lòng Hoàng thái tử Trần Trịnh (năm 1233). Ngay sau đó Thái thượng hoàng Trần Thừa cũng qua đời (tháng 2 năm 1234). Chỉ trong vòng 5 năm, Trần Cảnh liên tiếp mất đi những người thân yêu nhất. Những biến cố đó hẳn đã để lại khoảng trống mênh mông trong tâm hồn vị quân vương trẻ tuổi. Sau ngày Thượng hoàng mất, Trần Thái Tông có ý cất nhắc, dựa vào người anh trai Trần Liễu, phong cho Trần Liễu là Hiển Hoàng phụ chính bên cạnh người chú họ là Thái sư Trần Thủ Độ. Thế nhưng Trần Liễu và Trần Thủ Độ có vẻ không hoà hợp mà trở thành 2 thế lực đối đầu. Năm 1236 xảy ra sự biến cung Lệ Thiên, Trần Liễu bị kết án cưỡng gian cung nhân cũ Lý triều và bị giáng xuống làm Hoài vương, dần mất quyền lực trên chính trường. Từ đó, Thái sư Trần Thủ Độ trở thành người trụ cột quyền uy nhất trong triều. Với vị thế của mình, cùng với vợ là Linh Từ quốc mẫu, Trần thái sư cũng thẳng tay can thiệp vào chuyện hậu cung.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>ĐẮNG…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Năm 1237, mượn cớ Chiêu Thánh hoàng hậu ở với vua đã lâu không có con, Trần Thủ Độ lập mưu ép vua phế bỏ Chiêu Thánh và lập Thuận Thiên công chúa, vợ của Trần Liễu đồng thời là chị gái của Chiêu Thánh đang mang thai 3 tháng làm hoàng hậu để lấy đứa trẻ mà nhờ cậy về sau. Trần Liễu ôm hận nỗi nhục bị cướp vợ cướp con, họp quân nổi loạn ở sông Cái. Trước tình cảnh éo le này, với bản tính hiền lành và sự tôn trọng người chú, Trần Thái Tông vô cùng khó xử. <i>"Trẫm còn thơ ấu vội mất hai thân, bơ vơ đứng trên sĩ dân không chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các bậc đế vương đời trước, thạnh suy không thường, cho nên Trẫm đến núi này chỉ cầu làm Phật, chớ không cầu gì khác"</i>, lời bày tỏ của Trần Cảnh khi bí mật bỏ trốn trong đêm lên Yên Tử xin tu theo thiền sư Đạo Viên đã cho thấy sự bất lực tột cùng của đấng quân vương. Trước sự sắp đặt thế cục bất nhân bất nghĩa mà ông chú đưa ra cho mình, nhà vua những mong bỏ lại tất cả, rời xa sự đời. Thế nhưng, nhà vua có chạy đường trời cũng không thoát khỏi bàn tay ông chú Trần Thủ Độ. Trước tuyên bố “vua ở đâu kinh sư ở đó”, để tránh phá núi Yên Tử cùng lời phân tích của sư Đạo Viên <i>"Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm</i>”, vua Trần Thái Tông buộc phải xuống núi trở lại kinh sư và làm theo sắp đặt của ông chú. Nhà vua phải phế lập Hoàng hậu, Thuận Thiên trở thành Hoàng hậu của em chồng đồng thời là em rể, Trần Liễu phải an phận làm An Sinh vương mất hết quân đội, còn hoàng hậu bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa, giam lỏng trong hậu cung. Không ai rõ Trần Thủ Độ đã thuyết phục vua như thế nào, đã mang những ai những gì ra làm vật trao đổi với nhà vua, nhưng một quân vương ôn nhu, thiện lương như Trần Cảnh buộc phải chấp nhận chịu lời gièm pha của thiên hạ, chê trách của hậu nhân “phong hoá hủ bại”, “cướp vợ giành con của anh”. Rất có thể đó là lựa chọn duy nhất của vua để giữ mạng cho người anh Trần Liễu, bảo vệ tính mạng của người vợ Chiêu Thánh mà không làm Đại Việt lâm vào cảnh chiến loạn.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Sử có chép từ sau biến cố đó, vua Trần Thái Tông rất chuyên tâm tu tập theo Thiền tông Phật giáo. Có lẽ nghiên cứu, ứng dụng triết lý từ kinh Phật, là cách giúp cho vua lý giải sự đời, ngậm đắng nuốt cay, lấy lại tâm quân bình để trông coi chính sự, làm tốt vai trò quân chủ mà người vợ trao lại, giữ gìn ngai vàng mà mấy thế hệ ông cha đã đổ máu hy sinh để mang về cho gia tộc.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>CAY…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cay vốn không phải là một vị cơ bản thực phẩm mang đến, mà là cảm giác nóng của cơ thể khi bị kích thích. Vị cay là chất xúc tác khiến cho món ăn thêm hấp dẫn, khiến người thưởng thức thêm phấn khích, ngất ngây, nhưng cũng có thể làm người đó bị bỏng rát, đau đớn khi sử dụng quá mức. Dưới triều đại của Trần Thái Tông, nhiều sử gia nhìn nhận thái sư Trần Thủ Độ chính là quyền thần, nhưng ông ấy là quyền thần được vua trọng dụng và hết mực tin tưởng. Trần Thủ Độ “quyền át vua” song ông dùng quyền hành đó với cái tâm vì cơ nghiệp họ Trần và một mực trung thành với Thái Tông. Sau hai sự biến năm Bính Thân (1236) phế Hiển hoàng rồi năm Đinh Đậu (1237) phế lập Hoàng hậu, Trần Thái Tông đã chấp nhận số phận dựa vào ông chú. Theo thời gian, Trần Thái Tông khẳng định được tài năng đức độ, sự anh minh, sáng suốt của mình và dần dần tự chấp chính. Thái sư Trần Thủ Độ khi lớn tuổi cũng lui về sau để nhà vua và thế hệ con cháu họ Trần làm chủ, tiếp tục gánh vác cơ đồ. Thời gian trôi qua, chuyện cũ cũng lùi dần vào dĩ vãng trong miệng lưỡi thế gian. 33 năm ngồi trên ngai vàng, Trần Thái Tông cùng với Hoàng tộc họ Trần và triều đình đã mang lại thái bình thịnh trị cho Đại Việt sau thời kỳ loạn ly, suy sụp trầm trọng cuối thời nhà Lý. Bộ Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi nhận về Trần Thái Tông: <i>“Vua khoan nhân đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập kỷ dựng cương, chế độ Nhà Trần thực to lớn vậy.”</i> Vua vừa biết kế thừa phát huy những tinh hoa trong chế độ cai trị thời nhà Lý để lại, vừa suy tư cải tổ những điều bất cập, không còn phù hợp, không có lợi cho dân cho nước. Vua tiếp tục tôn sùng, học tập ứng dụng theo đạo Phật, vừa đổi mới, phát huy thế mạnh của Nho giáo, Đạo giáo vào giáo dục và trị quốc. Tinh thần “tam giáo đồng nguyên” là biểu hiện đặc sắc của nền văn hoá Đại Việt dưới thời Trần, giúp tạo nên những con người thời đại Đông A hào sảng, phóng khoáng, tài năng và anh hùng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Xuất thân từ con nhà võ, vua Trần Thái Tông rất chú trọng xây dựng quân đội Đại Việt vững vàng. Không chỉ cử tướng tài, vua còn tự mình thân chinh dẹp Bắc bình Chiêm (những năm 1240, 1241, 1252). Năm 1257 và 1258, dưới sự lãnh đạo của vua Trần Thái Tông cùng tài thao lược của Thái sư và các tướng giỏi, quyết tâm của toàn thể quân dân và kế sách vườn không nhà trống, vó ngựa chinh phạt thế giới của quân Mông Cổ đã buộc phải dừng lại tại kinh thành Thăng Long và rút quân về mà không hề cướp phá. Trải qua những mất mát, tổn thất nặng nề mà không hề nản chí, quân dân nhà Trần đã lật ngược thế trận, đánh cho quân giặc buộc phải sớm kết thúc chiến tranh, tướng giặc là Triệt Triệt Đô bị trách phạt phải uống thuốc độc tự vẫn. Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất toàn thắng, Trần Thái Tông dẫn đoàn quân Sát Thát ca khúc khải hoàn ngay trước thềm Tết Nguyên đán năm 1258.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b>BÙI…</b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ đã mang đến nhiều bài học và kinh nghiệm trận mạc cho quan quân nhà Trần cũng như ảnh hưởng lớn đến tư tưởng và những quyết định tiếp theo của vua Trần Thái Tông. Với phương châm bảo toàn sức dân, phải tham chiến là hạ sách, vua giữ chủ trương hoà hiếu với cả Nam Tống và quân Mông Cổ, hoà hoả bang giao nhưng cứng rắn không nhượng bộ trước những yêu sách nhũng nhiễu của quân Mông và nhà Nguyên về sau. Đồng thời vua dưỡng sức dân và nhanh chóng đào tạo thế hệ kế thừa đưa các quan văn, võ tướng trẻ và tài năng gánh vác việc nước.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Ngày mùng một Tết năm 1258, Trần Thái Tông tổ chức ngày hội khao quân, định công, phạt tội cho quan tướng tại Thăng Long. Cũng trong ngày này, vua ban cho công thần Lê Tần tên Lê Phụ Trần, lãnh chức Nhập nội phán thủ, tước Bảo Văn hầu và gả vợ cũ vua là Chiêu Thánh công chúa cho Lê Tần. Quyết định này một lần nữa dấy trên những lời chê trách trong dân gian “Trách người quân tử bạc tình, Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao”. Thế nhưng những gì diễn ra sau đó đã cho thấy đây là quyết định mang lại cái kết có hậu cho nhiều người. Sử chép lại Chiêu Thánh công chúa sinh được hai người con, con trai là Thượng vị hầu Lê Tông, sau này được ban quốc tính, chính là danh tướng Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng, con gái là Ứng Thụy công chúa Ngọc Khuê sau được gả cho Trạng nguyên Trần Cố. Người viết trộm nghĩ, để con cháu họ Lê được mang quốc tính họ Trần và phong tước hầu, vương, công chúa thì rất có thể Trần Thái Tông (lúc này là Thượng hoàng) đã nhận hai người làm nghĩa tử, nghĩa nữ. Cùng năm, ngày 24 tháng 2 âm lịch, Trần Thái Tông truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Hoảng tức vua Trần Thánh Tông và lui về làm Thái thượng hoàng. Sau khi nhường ngôi, Thượng hoàng thường ở phủ Thiên Trường (Nam Định) hoặc am Thái Vi thuộc hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), khi có việc mới trở về kinh sư. Ở tuổi 40 đương sung sức, vua Trần Thái Tông chọn rút về vai trò Thái thượng hoàng, để đích tử Trần Hoảng lúc này 18 tuổi nối ngôi, tức vua Trần Thánh Tông. Từ đó Ngài vừa dõi theo, chỉ bảo cho tân đế, vừa tự do thực hiện chí khí ngao du và tu học thiền tập. Trần Thái Tông là vị Thượng hoàng hiếm có trong lịch sử mà khi còn tại vị Hoàng tộc có cả Thái thượng hoàng, Hoàng đế (Trần Thánh Tông), Hoàng thái tử (Trần Khâm tức Trần Nhân Tông sinh năm 1258) và Hoàng thái tôn (Trần Thuyên tức Trần Anh Tông sinh năm 1276). <b></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Vào ngày 1 tháng 4 âm lịch năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông qua đời tại điện Vạn Thọ (Thăng Long) hưởng thọ 60 tuổi. Một năm sau đó, tháng 3 âm lịch năm 1278 Chiêu Thánh công chúa Lý Thiên Hinh cũng qua đời, thọ 61 tuổi. Câu chuyện sóng gió hôn nhân của bốn người anh chị em một nhà khép lại từ đây. <b></b></p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p>Có thể nói muôn vị nhân gian, ngọt ngào, mặn chát, đắng ngắt, cay nồng, thơm bùi, ân oán tình thù, tình yêu và gia tộc, chiến tranh và hoà bình, danh lợi phù hoa và thong dong tự tại, cuộc đời của Thái Tông Trần Cảnh đều nếm trải. Đón nhận những may mắn, thuận lợi và phát huy lợi thế đó; chấp nhận nghịch cảnh, những điều bất như ý và nhẫn nhịn đi qua vì mục đích lớn hơn; tôn trọng, lắng nghe những bậc cha chú đi trước và yêu thương tin tưởng, trao quyền cho thế hệ tiếp theo; ở ngôi chí tôn mà vừa nghiêm túc chuyên cần việc trị quốc, vừa chuyên tâm không trễ nải ước mong học Đạo, Trần Thái Tông được ca ngợi là ông vua thiền sư xuất sắc của Đại Việt đã có công kiến tạo nên thế hệ kiệt xuất tiếp theo của dòng máu Đông A anh hùng.</p></div><div class="block-wrapper" type="paragraph"><p><b><i>Đọc thêm:</i></b></p></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-6-kham-minh-dai-vuong-tran-lieu-tu-phung-can-toi-an-sinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 6 Khâm Minh Đại Vương Trần Liễu: Từ Phụng Càn Tới An Sinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div><div class="block-wrapper" type="linkTool"><a class="link-content" target="_blank" rel="nofollow noindex noreferrer" href="https://blog.vietales.vn/publication/nu-de-chuyen-chua-ke-k%E1%BB%B3-1-%E2%80%9Cnu-hoang-nuoc-mat%E2%80%9D-dai-viet-ly-thien-hinh"><div class="link-title">NỮ ĐẾ CHUYỆN CHƯA KỂ: Kỳ 1 “Nữ Hoàng Nước Mắt” Đại Việt: Lý Thiên Hinh</div><p class="link-description"></p><span class="link-anchor">blog.vietales.vn</span></a></div>